Phật pháp ứng dụng Lòng ngưỡng mộ phật pháp của vua A Dục

Vua A Dục trước là người rất độc ác, từ khi theo đạo Phật đổi thành người rất nhân từ. Hồi mới theo đạo, vì lòng cảm mộ quá dồi dào nên mỗi khi ngự ngoài đường hễ gặp vị Tỳ kheo nào đi ngang qua, liền xuống kiệu khấu đầu lạy.

Có một vị đại thần tên là Da Tát lấy thế làm quá đáng bèn can ngăn vua rằng: “Các Tỳ kheo kia chẳng qua là những người các cấp đi hành khất ngoài đường, không đáng tôn trọng lắm.” Vua yên lặng không trả lời.

Cách vài ngày sau, vua truyền cho các quan văn võ, mỗi ông phải đem bán một đầu súc vật, và cho biết giá bán các đầu ấy như thế nào. Ông Da Tát phải bán một đầu người. Các đầu súc vật thời bán được với giá tiền sai khác hơn kém nhau, duy có đầu người của ông Da Tát bán thời không ai mua cả. Vua hỏi cớ sao, ông Da Tát trả lời: Vì đầu người là vật hèn hạ không có giá trị gì. Vua lại hỏi: “Chỉ có một đầu này là hèn hạ hay tất cả đầu người đều hèn hạ?” Ông Da Tát đáp: “Tất cả đầu người đều hèn hạ.” Vua bèn hỏi: “Vậy đầu Trẫm đây cũng hèn hạ sao?” Ông Da Tát sợ hãi không dám nói, sau Vua cũng thú thật đầu Vua cũng hèn hạ.

Vua bèn giảng cho ông Da Tát nghe rằng: Phải! Người muốn can ta đừng lạy các vị Sa môn là nhà ngươi có ý kiêu căng tự đắc. Nhưng cái đầu của Trẫm này là một vật hèn hạ không ai thèm mua, vì cúi xuống mà được thêm công đức, thêm giá trị lên, thì phổng có hại gì? 

Nhà ngươi muốn chỉ trích các thầy Sa môn là người các cấp không sang trọng nhưng nhà ngươi không rõ uy đức của các Thầy. Khi nào có đi ăn tiệc, ăn đám cưới thời mới nên hỏi đến giai cấp người ta, chớ đi tu học phân biệt giai cấp làm gì. Như người sang trọng danh giá bị tội nặng thời ai cũng nói “Người này là kẻ có tội” và ai cũng đem lòng khinh bỉ. Trái lại con người hèn hạ mà tu nhân tích đức thời ai cũng kính trọng ai cũng cúi đầu.

Vua nói đến đây, bèn chỉ hẳn vào mặt ông Da Tát mà nói lớn rằng:

“Nhà ngươi há lại không biết câu này của Ðức Phật Thích Ca hay sao? Ngài dạy ‘Người có trí thời dầu vật không có giá trị cũng làm nên giá trị.’ Ta muốn theo Phật, ngươi lại can gián ta, ấy là bất trung. Ðến khi ta nằm xuống đất như cây mía kia thì dầu muốn lạy, muốn đứng dậy, muốn cung kính cũng không sao được nữa, thời làm thế nào được công đức. Vậy ngươi để yên ta lạy các vị Sa môn để kiếm chút phước đức. Nếu có người dám tự nói ‘Ta là người đáng tôn trọng hơn cả,’ thời người ấy là người u mê nhất đời vậy. Nếu lấy huệ nhãn của Ðức Phật mà xem xét thân thế, thời biết thân thể ông vua và thân mọi người giống nhau, cũng là da, thịt, xương, khác nhau chỉ có cái phù hoa trang sức bề ngoài. Nhưng cốt yếu ở đời là lòng đạo đức thời trong thân thể người hèn hạ nhất ở đời cũng có được, chính cái ấy con người trí giả gặp đâu cũng phải cung kính phải vái lạy vậy.”


Xem thêm:

Lòng ngưỡng mộ phật pháp của vua A Dục

Phật pháp ứng dụng Lòng ngưỡng mộ phật pháp của vua A Dục

Vua A Dục trước là người rất độc ác, từ khi theo đạo Phật đổi thành người rất nhân từ. Hồi mới theo đạo, vì lòng cảm mộ quá dồi dào nên mỗi khi ngự ngoài đường hễ gặp vị Tỳ kheo nào đi ngang qua, liền xuống kiệu khấu đầu lạy.

Có một vị đại thần tên là Da Tát lấy thế làm quá đáng bèn can ngăn vua rằng: “Các Tỳ kheo kia chẳng qua là những người các cấp đi hành khất ngoài đường, không đáng tôn trọng lắm.” Vua yên lặng không trả lời.

Cách vài ngày sau, vua truyền cho các quan văn võ, mỗi ông phải đem bán một đầu súc vật, và cho biết giá bán các đầu ấy như thế nào. Ông Da Tát phải bán một đầu người. Các đầu súc vật thời bán được với giá tiền sai khác hơn kém nhau, duy có đầu người của ông Da Tát bán thời không ai mua cả. Vua hỏi cớ sao, ông Da Tát trả lời: Vì đầu người là vật hèn hạ không có giá trị gì. Vua lại hỏi: “Chỉ có một đầu này là hèn hạ hay tất cả đầu người đều hèn hạ?” Ông Da Tát đáp: “Tất cả đầu người đều hèn hạ.” Vua bèn hỏi: “Vậy đầu Trẫm đây cũng hèn hạ sao?” Ông Da Tát sợ hãi không dám nói, sau Vua cũng thú thật đầu Vua cũng hèn hạ.

Vua bèn giảng cho ông Da Tát nghe rằng: Phải! Người muốn can ta đừng lạy các vị Sa môn là nhà ngươi có ý kiêu căng tự đắc. Nhưng cái đầu của Trẫm này là một vật hèn hạ không ai thèm mua, vì cúi xuống mà được thêm công đức, thêm giá trị lên, thì phổng có hại gì? 

Nhà ngươi muốn chỉ trích các thầy Sa môn là người các cấp không sang trọng nhưng nhà ngươi không rõ uy đức của các Thầy. Khi nào có đi ăn tiệc, ăn đám cưới thời mới nên hỏi đến giai cấp người ta, chớ đi tu học phân biệt giai cấp làm gì. Như người sang trọng danh giá bị tội nặng thời ai cũng nói “Người này là kẻ có tội” và ai cũng đem lòng khinh bỉ. Trái lại con người hèn hạ mà tu nhân tích đức thời ai cũng kính trọng ai cũng cúi đầu.

Vua nói đến đây, bèn chỉ hẳn vào mặt ông Da Tát mà nói lớn rằng:

“Nhà ngươi há lại không biết câu này của Ðức Phật Thích Ca hay sao? Ngài dạy ‘Người có trí thời dầu vật không có giá trị cũng làm nên giá trị.’ Ta muốn theo Phật, ngươi lại can gián ta, ấy là bất trung. Ðến khi ta nằm xuống đất như cây mía kia thì dầu muốn lạy, muốn đứng dậy, muốn cung kính cũng không sao được nữa, thời làm thế nào được công đức. Vậy ngươi để yên ta lạy các vị Sa môn để kiếm chút phước đức. Nếu có người dám tự nói ‘Ta là người đáng tôn trọng hơn cả,’ thời người ấy là người u mê nhất đời vậy. Nếu lấy huệ nhãn của Ðức Phật mà xem xét thân thế, thời biết thân thể ông vua và thân mọi người giống nhau, cũng là da, thịt, xương, khác nhau chỉ có cái phù hoa trang sức bề ngoài. Nhưng cốt yếu ở đời là lòng đạo đức thời trong thân thể người hèn hạ nhất ở đời cũng có được, chính cái ấy con người trí giả gặp đâu cũng phải cung kính phải vái lạy vậy.”


Xem thêm:
Đọc thêm..
Khi nhìn trẻ con khóc lóc cố đòi cho bằng được những vật ngoài khả năng sở hữu của cha mẹ nó, người lớn chúng ta hay mỉm cười cảm thông độ lượng. Chỉ có trẻ con mới cố đòi những vật “không thể được.” Khi nào lớn khôn các cháu sẽ hiểu.

Vậy mà không ít người đã lớn khôn, học rộng hiểu nhiều, thừa kinh nghiệm sống nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn không hơn trẻ con là mấy. Vẫn hy vọng, mong chờ vô số điều vốn “không thể được.” Câu chuyện vua Văn-trà dưới đây là một điển hình.

“Một thời Tôn giả Na-la-đà ở trong vườn trúc của trưởng giả nước Ba-ca-lê. Bấy giờ vua Văn-trà có đệ nhất phu nhân mạng chung. Vua rất yêu bà chưa từng lìa tâm. Khi ấy, có một người đến tâu vua:

-    Đại vương nên biết! Nay đệ nhất phu nhân đã mạng chung.

Vua nghe phu nhân chết, ôm lòng sầu lo, nói với mọi người.

-    Các ngươi mau khiêng xác phu nhân, ướp dầu mè cho ta được thấy.

Bấy giờ, người ta vâng lệnh vua, đem phu nhân đặt trong dầu mè. Vua nghe phu nhân đã chết, hết sức sầu não, không ăn, không uống, không cai trị theo vương pháp, cũng bỏ bê việc vua. Khi ấy, tả hữu có một người tên Thiện Niệm, thường cầm kiếm hầu đại vương, tâu:

- Đại vương nên biết! Trong nước này có Sa-môn tên Na-la-đà đắc A-la -hán, có đại thần túc, hiểu rộng biết nhiều, không gì chẳng rành, biện tài dũng tuệ, khi nói thường cười nụ. Xin vua hãy đến nghe ngài thuyết pháp. Vua nghe pháp sẽ không còn sầu lo, khổ não nữa. (…)

Bấy giờ, vua ngồi xe vũ bảo ra khỏi thành đến chỗ Na-la-đà, đi bộ vào vườn trúc của trưởng giả; bỏ năm uy dung của nhân vương xuống một chỗ. Đến ngài Na-la-đà, quỳ lạy rồi ngồi một bên. Khi ấy, Na-la-đà bảo vua:


- Đại vương nên biết! Pháp huyễn mộng chớ khởi sầu lo, pháp bọt bèo, và chớ đem tuyết đọng mà khởi sầu lo và cũng chớ nên đem tưởng pháp như hoa mà khởi sầu lo. Vì sao thế? Nay có năm việc rất không thể được, là lời Như Lai nói. Thế nào là năm? 


Phật pháp ứng dụng không thể được

Phàm vật đáng dứt mà muốn cho chẳng dứt, điều này không thể được. Phàm vật đáng diệt mà muốn cho đừng diệt, điều này chẳng thể được. Phàm già mà muốn không già, điều này chẳng thể được. Lại nữa, bệnh mà muốn cho không bệnh, điều này chẳng thể được. Lại nữa, chết mà muốn cho không chết, điều này chẳng thể được. Đó là, này đại vương! Có năm việc này rất chẳng thể được, là lời Như Lai nói”…

Khi mất đi một cái gì quý giá nhất, như mất người thân thương chẳng hạn thì niềm đau dường như khiến chúng ta hóa đá. Nỗi đau, tiếc thương như trùm phủ lên xám xịt cả cuộc đời này. Chúng ta trân trọng những niềm riêng ngập tràn xúc cảm ấy nhưng vấn đề là phải biết cách gượng dậy, bước tới để tiếp tục cuộc hành trình.

Trong kinh văn, Tôn giả Na-la-đà đã khai thị cho vua Văn -trà về tính vô thường của các pháp, rõ biết đó là điều “không thể được.” Vì vô thường xảy ra trong từng tích tắc mà ta cứ mong mọi sự thường hằng thì làm sao được.

Nên khi bị “mất, diệt, già, bệnh, chết” thì hãy quán chiếu: “Chẳng phải riêng một mình phải chịu. Người khác cũng có pháp này.” Nghĩa là, ai trên đời này cũng phải chịu “mất, diệt, già, bệnh, chết” cả, đây là điều bình thường luôn xảy ra với ta và mọi người.

Mặt khác, nếu cứ để cho niềm đau hành hạ mà không tự thoát ra thì rốt cuộc chỉ hại thân này. Thực tế có không ít người phải gánh chịu nỗi đau kép. Cái vật hay con người mất rồi thì đau khổ đã đành. Nhưng vì quá đau thương, chúng ta quyết không chấp nhận sự thật ở đời là “không thể được” để tự nguôi ngoai nên khổ đau lại chồng thêm đau khổ. Thế nên, thường suy ngẫm về vô thường để ngộ ra nhiều điều “không thể được” mà tùy duyên tiếp vật, sống tự tại an nhiên.


Xem thêm:

Không thể được

Khi nhìn trẻ con khóc lóc cố đòi cho bằng được những vật ngoài khả năng sở hữu của cha mẹ nó, người lớn chúng ta hay mỉm cười cảm thông độ lượng. Chỉ có trẻ con mới cố đòi những vật “không thể được.” Khi nào lớn khôn các cháu sẽ hiểu.

Vậy mà không ít người đã lớn khôn, học rộng hiểu nhiều, thừa kinh nghiệm sống nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn không hơn trẻ con là mấy. Vẫn hy vọng, mong chờ vô số điều vốn “không thể được.” Câu chuyện vua Văn-trà dưới đây là một điển hình.

“Một thời Tôn giả Na-la-đà ở trong vườn trúc của trưởng giả nước Ba-ca-lê. Bấy giờ vua Văn-trà có đệ nhất phu nhân mạng chung. Vua rất yêu bà chưa từng lìa tâm. Khi ấy, có một người đến tâu vua:

-    Đại vương nên biết! Nay đệ nhất phu nhân đã mạng chung.

Vua nghe phu nhân chết, ôm lòng sầu lo, nói với mọi người.

-    Các ngươi mau khiêng xác phu nhân, ướp dầu mè cho ta được thấy.

Bấy giờ, người ta vâng lệnh vua, đem phu nhân đặt trong dầu mè. Vua nghe phu nhân đã chết, hết sức sầu não, không ăn, không uống, không cai trị theo vương pháp, cũng bỏ bê việc vua. Khi ấy, tả hữu có một người tên Thiện Niệm, thường cầm kiếm hầu đại vương, tâu:

- Đại vương nên biết! Trong nước này có Sa-môn tên Na-la-đà đắc A-la -hán, có đại thần túc, hiểu rộng biết nhiều, không gì chẳng rành, biện tài dũng tuệ, khi nói thường cười nụ. Xin vua hãy đến nghe ngài thuyết pháp. Vua nghe pháp sẽ không còn sầu lo, khổ não nữa. (…)

Bấy giờ, vua ngồi xe vũ bảo ra khỏi thành đến chỗ Na-la-đà, đi bộ vào vườn trúc của trưởng giả; bỏ năm uy dung của nhân vương xuống một chỗ. Đến ngài Na-la-đà, quỳ lạy rồi ngồi một bên. Khi ấy, Na-la-đà bảo vua:


- Đại vương nên biết! Pháp huyễn mộng chớ khởi sầu lo, pháp bọt bèo, và chớ đem tuyết đọng mà khởi sầu lo và cũng chớ nên đem tưởng pháp như hoa mà khởi sầu lo. Vì sao thế? Nay có năm việc rất không thể được, là lời Như Lai nói. Thế nào là năm? 


Phật pháp ứng dụng không thể được

Phàm vật đáng dứt mà muốn cho chẳng dứt, điều này không thể được. Phàm vật đáng diệt mà muốn cho đừng diệt, điều này chẳng thể được. Phàm già mà muốn không già, điều này chẳng thể được. Lại nữa, bệnh mà muốn cho không bệnh, điều này chẳng thể được. Lại nữa, chết mà muốn cho không chết, điều này chẳng thể được. Đó là, này đại vương! Có năm việc này rất chẳng thể được, là lời Như Lai nói”…

Khi mất đi một cái gì quý giá nhất, như mất người thân thương chẳng hạn thì niềm đau dường như khiến chúng ta hóa đá. Nỗi đau, tiếc thương như trùm phủ lên xám xịt cả cuộc đời này. Chúng ta trân trọng những niềm riêng ngập tràn xúc cảm ấy nhưng vấn đề là phải biết cách gượng dậy, bước tới để tiếp tục cuộc hành trình.

Trong kinh văn, Tôn giả Na-la-đà đã khai thị cho vua Văn -trà về tính vô thường của các pháp, rõ biết đó là điều “không thể được.” Vì vô thường xảy ra trong từng tích tắc mà ta cứ mong mọi sự thường hằng thì làm sao được.

Nên khi bị “mất, diệt, già, bệnh, chết” thì hãy quán chiếu: “Chẳng phải riêng một mình phải chịu. Người khác cũng có pháp này.” Nghĩa là, ai trên đời này cũng phải chịu “mất, diệt, già, bệnh, chết” cả, đây là điều bình thường luôn xảy ra với ta và mọi người.

Mặt khác, nếu cứ để cho niềm đau hành hạ mà không tự thoát ra thì rốt cuộc chỉ hại thân này. Thực tế có không ít người phải gánh chịu nỗi đau kép. Cái vật hay con người mất rồi thì đau khổ đã đành. Nhưng vì quá đau thương, chúng ta quyết không chấp nhận sự thật ở đời là “không thể được” để tự nguôi ngoai nên khổ đau lại chồng thêm đau khổ. Thế nên, thường suy ngẫm về vô thường để ngộ ra nhiều điều “không thể được” mà tùy duyên tiếp vật, sống tự tại an nhiên.


Xem thêm:
Đọc thêm..
Nó buồn tình cứ đi lang thang vô định, nhiều khi xong ca không muốn về nhà cứ để mặc cho tư tưởng và đôi chân muốn đi đâu thì đi. Nó đi không biết đi về đâu, tìm một cái gì đó mà nó cũng không biết đó là cái gì; ngày tháng vẫn trôi qua như thế. Cho đến một hôm nọ, trong lần lang thang như thế nó lại ghé vào một ngôi chùa trông có vẻ đơn sơ vắng vẻ. Nó ngắm nhìn kiểng chùa ngoài sân và cũng không có ý định vào trong, nhưng rồi có một lực vô hình nào đó đưa bước chân nó bước vào chánh điện. Trông thấy tượng Phật nhưng nó cũng không có ý định lễ lạy nhưng không hiểu sao nó tự động sụp lạy!

Ngày xưa khi còn nhỏ, ba nó vẫn thường dạy nó đọc kinh, lễ Phật. Nó rất chăm, rất thích thú nhưng khi lên đến cấp III thì tự nhiên xao lãng hết. Thậm chí nó còn sanh ra chống báng:

- Tượng Phật bằng gỗ, đá mà mắc gì phải lạy? Ba nó giải thích, khuyên lơn nó rất nhiều nhưng nó vẫn không nghe, ngựa non háu đá mà. Nó tiêm nhiễm nhiều quan niệm sai lầm ở ngoài đời nên sanh ra vậy, mặc dù nó sanh ra trong gia đình Phật giáo thuần thành.

Ngày tháng thoi đưa, thời gian như nước chảy mây bay, như phi hoa lạc diệp… Nó lên thành học rồi lấy vợ ở luôn trên đó. Nhiều người bảo:

- Thằng chả may mắn “chuột sa hũ nếp.”

Nhưng người đời cũng bảo: “Nằm trong chăn mới biết chăn có rận” thật cũng chẳng sai tí nào. Ban đầu vợ chồng cũng đầm ấm hạnh phúc nhưng mật ngọt chẳng nhiều, thời gian hạnh phúc chẳng bao nhiêu; chẳng mấy chốc là tới thời vỡ mật. Vợ nó vốn làm ra nhiều tiền, nắm giữ tay hòm chìa khoá, nhà cửa tài sản. Nó thì lương công chức ba cọc ba đồng… dần dà vợ nó sanh ra cống cao, tự kiêu. Vợ nó ỷ tiền coi thường nó lại còn khi dễ cả bên chồng. Nó giận lắm nhưng yếu thế thất cơ không làm gì được lặng lẽ lẩy Kiều:

“Thấp cơ thua trí đàn bà Trông vào đau ruột nói ra ngại lời” Có lần hai vợ chồng cãi vả nhau nó nói:

- Khi yêu nhau đàn bà dễ thương như con mèo, khi cưới về rồi thì biến thành sư tử hết ráo!
 

Vợ nó the thé:

- Lương ông không đủ cho tôi ăn sáng!

Cuộc sống ngày càng ngột ngạt, nặng nề. Vợ nó chẳng những giữ tiền, trùm sò có hạng mà lại còn ghen kinh khủng! Nếu vợ của Phòng Huyền Linh đời Đường sống dậy chắc cũng bái vợ nó làm sư phụ. Nhiều lúc nó muốn ly dị hay bỏ đi quách nhưng thương con nên ráng nhịn nhục.



Phật pháp ứng dụng điều kỳ diệu đã xảy ra


Nhịn nhục đủ điều, buồn tình vô hạn, cô đơn tận cùng nên nó mới để bước chân lãng tử lang thang đó đây. Rồi cơ duyên thế nào mà nó đến ngôi chùa đơn sơ vắng vẻ này. Sau lần lễ Phật hôm ấy nó cảm thấy trong người có một sự xao động lạ lùng, tâm can nó có gì như thôi thúc nó lờ mờ cảm nhận có một sự thay đổi trong lòng nó nhưng nó cũng không biết là cái gì. Thế rồi nó tự nhiên tìm hiểu về Phật Pháp. Nó đọc ngấu nghiến những sách vở tài liệu có được. Nó lên mạng tìm đọc với sự say mê hấp dẫn mà xưa nay nó chưa từng có. Nó bắt đầu đến chùa thường xuyên. Nó bắt đầu học tụng kinh, lạy Phật. Nó làm với tất cả tâm thành và toàn ý. Vợ nó thấy có sự khác lạ, có lần còn chế giễu:


- Tu hú chứ tu gì ông!

Nó giận lắm nhưng làm thinh. Nó tự nghĩ chắc là khảo nghiệm đây! Có một hôm nó tụng kinh xong và cảm thấy khoan khoái và an lạc lạ lùng, bèn gọi phone về cho ba nó:

- Con mới tụng xong thời kinh và cảm thấy hỷ lạc lắm, cầm lòng không đặng nên gọi nói cho ba biết đây!
Ba nó cảm động lắm, không ngờ thằng nhỏ ngày nào chống báng vậy mà giờ trở nên thuần thành như vậy. Ba nó còn nói:

- Đây là cái tin vui nhất mà ba nhận được! Đây là cái may mắn lớn nhất cho dù có trúng số độc đắc cũng không bằng!

Ngày tháng như bóng câu qua cửa sổ, như dòng sông cuốn trôi tất cả, như lá rụng mây bay… Nó cứ giữ nguyên hiện trạng như thế, ráng nhẫn nhục và học Phật. Nó nghe lời sư phụ ráng buông bỏ những gì không cần thiết cho nhẹ người, ráng xả những gì mang nặng trong lòng cho tâm thảnh thơi. Nó đọc sách thiền rất hâm mộ những chuyện: Đả, hét, bổng… của Lâm Tế; chuyện chẻ tượng của Đơn Hà; Chuyện chuyển ngữ của Bách Trượng… Nhưng xem ra thì cũng khó. Nó tự thấy Tịnh Độ tương đối thích hợp hơn, nhưng nó vẫn thường ngồi thiền tịnh tâm sau thời kinh hoặc ngồi thiền nhưng giữ câu Phật hiệu trong tâm, trụ tâm ở câu Phật hiệu…

Một hôm vợ nó đưa nó một ít tiền và nói:


- Nghe má bệnh, gởi ít tiền về quê cho má uống thuốc.

Nó vô cùng ngạc nhiên, trong lòng thấy quái lạ nhưng vẫn không nói gì. Rồi hôm nọ vợ nó cũng lên chùa lễ Phật, nó thấy lạ lẫm quá nhưng cũng im lặng. Bạn bè gọi hùn phước giúp người nghèo khổ, nó bảo vợ đưa ít tiền. Vợ nó liền đưa. Nó vốn ngaị hỏi tiền vợ vì xưa nay luôn bị chửi hay nói nặng nhẹ; thế mà bây giờ đưa tiền mà không có gì bực bội cả. Nó cảm nhận được có một sự thay đổi nào đó từ vợ nó. Nó lên chùa kể chuyện với sư phụ. Sư phụ bảo:

Có lẽ sự gia hộ của Bồ Tát! Khi tâm con chuyển thì cảnh chuyển. Vợ con có lẽ cũng bắt đầu chuyển.

Nó vui trong lòng không kể xiết, liền lên cánh điện lạy Phật tạ ơn. Nó nghĩ những ngày lang thang mà không biết mục đích, không biết đi đâu về đâu… Ấy vậy mà bước đến ngôi chùa này, có lẽ có sự gia hộ của chư Phật, chư Bồ Tát, thiện thần! Phật pháp đã làm sống lại nó. Phật Pháp đã cứu cuộc hôn nhân trên bờ gãy đổ. Nó thấy lòng vui đến rơi nước mắt. Nó nhớ lời một vị sư nào đó nói rằng:

- Trong đạo Phật không có thần thông, biến hóa… Sự chuyển đổi tâm niệm của lòng người mới chính là thần thông!
 

Ngày tháng qua mau, mùa đến rồi mùa đi. Nó cũng dần qua tuổi thanh niên, thế gian vô thường vẫn ngày ngày xảy ra bao biến đổi nhưng niềm tin vào Phật Pháp của nó không có gì có thể làm lung lay. Nó nghĩ cái cơ duyên này có thể từ tiền kiếp xa xưa, cái cơ duyên nào được vun bồi lúc còn nhỏ ba nó chỉ dạy… Đã có lúc những tưởng nó mai một rồi, nào ngờ nó vẫn âm ỉ và đến một ngày nó laị bùng lên ngọn lửa hồng. Nó nhớ có lần thầy nó cười cười bảo:

- Con người ta khi mà khổ quá thì tự nhiên họ lại giác ngộ, họ lại tỉnh ra!

Ý thầy muốn nói cùng tắc biến, biến sanh thông. Không ngờ nó lại soi thấy mình ở trong cái ngữ cảnh này.


Xem thêm:

Điều kỳ diệu đã xảy ra

Nó buồn tình cứ đi lang thang vô định, nhiều khi xong ca không muốn về nhà cứ để mặc cho tư tưởng và đôi chân muốn đi đâu thì đi. Nó đi không biết đi về đâu, tìm một cái gì đó mà nó cũng không biết đó là cái gì; ngày tháng vẫn trôi qua như thế. Cho đến một hôm nọ, trong lần lang thang như thế nó lại ghé vào một ngôi chùa trông có vẻ đơn sơ vắng vẻ. Nó ngắm nhìn kiểng chùa ngoài sân và cũng không có ý định vào trong, nhưng rồi có một lực vô hình nào đó đưa bước chân nó bước vào chánh điện. Trông thấy tượng Phật nhưng nó cũng không có ý định lễ lạy nhưng không hiểu sao nó tự động sụp lạy!

Ngày xưa khi còn nhỏ, ba nó vẫn thường dạy nó đọc kinh, lễ Phật. Nó rất chăm, rất thích thú nhưng khi lên đến cấp III thì tự nhiên xao lãng hết. Thậm chí nó còn sanh ra chống báng:

- Tượng Phật bằng gỗ, đá mà mắc gì phải lạy? Ba nó giải thích, khuyên lơn nó rất nhiều nhưng nó vẫn không nghe, ngựa non háu đá mà. Nó tiêm nhiễm nhiều quan niệm sai lầm ở ngoài đời nên sanh ra vậy, mặc dù nó sanh ra trong gia đình Phật giáo thuần thành.

Ngày tháng thoi đưa, thời gian như nước chảy mây bay, như phi hoa lạc diệp… Nó lên thành học rồi lấy vợ ở luôn trên đó. Nhiều người bảo:

- Thằng chả may mắn “chuột sa hũ nếp.”

Nhưng người đời cũng bảo: “Nằm trong chăn mới biết chăn có rận” thật cũng chẳng sai tí nào. Ban đầu vợ chồng cũng đầm ấm hạnh phúc nhưng mật ngọt chẳng nhiều, thời gian hạnh phúc chẳng bao nhiêu; chẳng mấy chốc là tới thời vỡ mật. Vợ nó vốn làm ra nhiều tiền, nắm giữ tay hòm chìa khoá, nhà cửa tài sản. Nó thì lương công chức ba cọc ba đồng… dần dà vợ nó sanh ra cống cao, tự kiêu. Vợ nó ỷ tiền coi thường nó lại còn khi dễ cả bên chồng. Nó giận lắm nhưng yếu thế thất cơ không làm gì được lặng lẽ lẩy Kiều:

“Thấp cơ thua trí đàn bà Trông vào đau ruột nói ra ngại lời” Có lần hai vợ chồng cãi vả nhau nó nói:

- Khi yêu nhau đàn bà dễ thương như con mèo, khi cưới về rồi thì biến thành sư tử hết ráo!
 

Vợ nó the thé:

- Lương ông không đủ cho tôi ăn sáng!

Cuộc sống ngày càng ngột ngạt, nặng nề. Vợ nó chẳng những giữ tiền, trùm sò có hạng mà lại còn ghen kinh khủng! Nếu vợ của Phòng Huyền Linh đời Đường sống dậy chắc cũng bái vợ nó làm sư phụ. Nhiều lúc nó muốn ly dị hay bỏ đi quách nhưng thương con nên ráng nhịn nhục.



Phật pháp ứng dụng điều kỳ diệu đã xảy ra


Nhịn nhục đủ điều, buồn tình vô hạn, cô đơn tận cùng nên nó mới để bước chân lãng tử lang thang đó đây. Rồi cơ duyên thế nào mà nó đến ngôi chùa đơn sơ vắng vẻ này. Sau lần lễ Phật hôm ấy nó cảm thấy trong người có một sự xao động lạ lùng, tâm can nó có gì như thôi thúc nó lờ mờ cảm nhận có một sự thay đổi trong lòng nó nhưng nó cũng không biết là cái gì. Thế rồi nó tự nhiên tìm hiểu về Phật Pháp. Nó đọc ngấu nghiến những sách vở tài liệu có được. Nó lên mạng tìm đọc với sự say mê hấp dẫn mà xưa nay nó chưa từng có. Nó bắt đầu đến chùa thường xuyên. Nó bắt đầu học tụng kinh, lạy Phật. Nó làm với tất cả tâm thành và toàn ý. Vợ nó thấy có sự khác lạ, có lần còn chế giễu:


- Tu hú chứ tu gì ông!

Nó giận lắm nhưng làm thinh. Nó tự nghĩ chắc là khảo nghiệm đây! Có một hôm nó tụng kinh xong và cảm thấy khoan khoái và an lạc lạ lùng, bèn gọi phone về cho ba nó:

- Con mới tụng xong thời kinh và cảm thấy hỷ lạc lắm, cầm lòng không đặng nên gọi nói cho ba biết đây!
Ba nó cảm động lắm, không ngờ thằng nhỏ ngày nào chống báng vậy mà giờ trở nên thuần thành như vậy. Ba nó còn nói:

- Đây là cái tin vui nhất mà ba nhận được! Đây là cái may mắn lớn nhất cho dù có trúng số độc đắc cũng không bằng!

Ngày tháng như bóng câu qua cửa sổ, như dòng sông cuốn trôi tất cả, như lá rụng mây bay… Nó cứ giữ nguyên hiện trạng như thế, ráng nhẫn nhục và học Phật. Nó nghe lời sư phụ ráng buông bỏ những gì không cần thiết cho nhẹ người, ráng xả những gì mang nặng trong lòng cho tâm thảnh thơi. Nó đọc sách thiền rất hâm mộ những chuyện: Đả, hét, bổng… của Lâm Tế; chuyện chẻ tượng của Đơn Hà; Chuyện chuyển ngữ của Bách Trượng… Nhưng xem ra thì cũng khó. Nó tự thấy Tịnh Độ tương đối thích hợp hơn, nhưng nó vẫn thường ngồi thiền tịnh tâm sau thời kinh hoặc ngồi thiền nhưng giữ câu Phật hiệu trong tâm, trụ tâm ở câu Phật hiệu…

Một hôm vợ nó đưa nó một ít tiền và nói:


- Nghe má bệnh, gởi ít tiền về quê cho má uống thuốc.

Nó vô cùng ngạc nhiên, trong lòng thấy quái lạ nhưng vẫn không nói gì. Rồi hôm nọ vợ nó cũng lên chùa lễ Phật, nó thấy lạ lẫm quá nhưng cũng im lặng. Bạn bè gọi hùn phước giúp người nghèo khổ, nó bảo vợ đưa ít tiền. Vợ nó liền đưa. Nó vốn ngaị hỏi tiền vợ vì xưa nay luôn bị chửi hay nói nặng nhẹ; thế mà bây giờ đưa tiền mà không có gì bực bội cả. Nó cảm nhận được có một sự thay đổi nào đó từ vợ nó. Nó lên chùa kể chuyện với sư phụ. Sư phụ bảo:

Có lẽ sự gia hộ của Bồ Tát! Khi tâm con chuyển thì cảnh chuyển. Vợ con có lẽ cũng bắt đầu chuyển.

Nó vui trong lòng không kể xiết, liền lên cánh điện lạy Phật tạ ơn. Nó nghĩ những ngày lang thang mà không biết mục đích, không biết đi đâu về đâu… Ấy vậy mà bước đến ngôi chùa này, có lẽ có sự gia hộ của chư Phật, chư Bồ Tát, thiện thần! Phật pháp đã làm sống lại nó. Phật Pháp đã cứu cuộc hôn nhân trên bờ gãy đổ. Nó thấy lòng vui đến rơi nước mắt. Nó nhớ lời một vị sư nào đó nói rằng:

- Trong đạo Phật không có thần thông, biến hóa… Sự chuyển đổi tâm niệm của lòng người mới chính là thần thông!
 

Ngày tháng qua mau, mùa đến rồi mùa đi. Nó cũng dần qua tuổi thanh niên, thế gian vô thường vẫn ngày ngày xảy ra bao biến đổi nhưng niềm tin vào Phật Pháp của nó không có gì có thể làm lung lay. Nó nghĩ cái cơ duyên này có thể từ tiền kiếp xa xưa, cái cơ duyên nào được vun bồi lúc còn nhỏ ba nó chỉ dạy… Đã có lúc những tưởng nó mai một rồi, nào ngờ nó vẫn âm ỉ và đến một ngày nó laị bùng lên ngọn lửa hồng. Nó nhớ có lần thầy nó cười cười bảo:

- Con người ta khi mà khổ quá thì tự nhiên họ lại giác ngộ, họ lại tỉnh ra!

Ý thầy muốn nói cùng tắc biến, biến sanh thông. Không ngờ nó lại soi thấy mình ở trong cái ngữ cảnh này.


Xem thêm:

Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng in kinh

Có người rất ái mộ Thiền 

Cho nên quyết chí tìm tiền in kinh
Dù gian khó vẫn tiến hành
Dù cho tốn kém lòng thành khắc ghi. 


Vượt đèo lội suối ông đi
Quyên tiền khắp nẻo sá chi thân mình, 
Tìm người thiện cảm, nhiệt tình
Góp phần công đức in kinh cúng dường, 

Bạc tiền Phật tử mười phương
Cúng nhiều cúng ít ông thường coi ngang 
Cám ơn những tấm lòng vàng
Với lời quý trọng luôn bằng như nhau. 

Mười năm thấm thoắt trôi mau 
Ông gom tiền đủ, bắt đầu in kinh, 
Nào ngờ nạn lụt thình lình
Nước sông năm đó dâng nhanh ngập tràn 

Bà con đói khổ than van
Mủi lòng trước cảnh lầm than quanh mình 
Bao tiền quyên để in kinh
Ông đem cứu đói chúng sinh trong vùng. 

Hết tiền ông chẳng ngại ngùng
Bắt đầu quyên lại vô cùng hăng say, 
Vài năm sau chợt buồn thay
Tai ương bệnh dịch lan đầy khắp nơi 

Bà con hoạn nạn kêu trời
Thấy bao cảnh khổ, ông rơi lệ sầu 
Bao tiền quyên góp bấy lâu
Ông mang ra giúp há đâu ngại ngần. 


Thế rồi ông lại quyết tâm
Ra công quyên góp một lần thứ ba, 
Hai mươi năm nữa trôi qua
Lần này ý nguyện nở hoa nhiệm mầu 

Quyên tiền bạc, đạt yêu cầu
Ông in kinh để dài lâu cho đời 
Một bộ kinh rất tuyệt vời
Thơm lừng hương Đạo, rạng soi ý Thiền 

Và trong tu viện khắp miền
Kinh kia tàng trữ lưu truyền mãi thôi. 
Biết bao thế hệ qua rồi
Người già nói lại cho đời hậu sinh 

Rằng: "Xưa ông có công trình
Kinh thơm ba bộ hoàn thành trước sau 

Tuy rằng hai bộ kinh đầu
Vô hình nhưng lại thấm sâu cõi lòng 
Tâm từ tỏa ngát không trung
So ra vượt bộ sau cùng biết bao!"


Xem thêm:

In Kinh

Phật pháp ứng dụng in kinh

Có người rất ái mộ Thiền 

Cho nên quyết chí tìm tiền in kinh
Dù gian khó vẫn tiến hành
Dù cho tốn kém lòng thành khắc ghi. 


Vượt đèo lội suối ông đi
Quyên tiền khắp nẻo sá chi thân mình, 
Tìm người thiện cảm, nhiệt tình
Góp phần công đức in kinh cúng dường, 

Bạc tiền Phật tử mười phương
Cúng nhiều cúng ít ông thường coi ngang 
Cám ơn những tấm lòng vàng
Với lời quý trọng luôn bằng như nhau. 

Mười năm thấm thoắt trôi mau 
Ông gom tiền đủ, bắt đầu in kinh, 
Nào ngờ nạn lụt thình lình
Nước sông năm đó dâng nhanh ngập tràn 

Bà con đói khổ than van
Mủi lòng trước cảnh lầm than quanh mình 
Bao tiền quyên để in kinh
Ông đem cứu đói chúng sinh trong vùng. 

Hết tiền ông chẳng ngại ngùng
Bắt đầu quyên lại vô cùng hăng say, 
Vài năm sau chợt buồn thay
Tai ương bệnh dịch lan đầy khắp nơi 

Bà con hoạn nạn kêu trời
Thấy bao cảnh khổ, ông rơi lệ sầu 
Bao tiền quyên góp bấy lâu
Ông mang ra giúp há đâu ngại ngần. 


Thế rồi ông lại quyết tâm
Ra công quyên góp một lần thứ ba, 
Hai mươi năm nữa trôi qua
Lần này ý nguyện nở hoa nhiệm mầu 

Quyên tiền bạc, đạt yêu cầu
Ông in kinh để dài lâu cho đời 
Một bộ kinh rất tuyệt vời
Thơm lừng hương Đạo, rạng soi ý Thiền 

Và trong tu viện khắp miền
Kinh kia tàng trữ lưu truyền mãi thôi. 
Biết bao thế hệ qua rồi
Người già nói lại cho đời hậu sinh 

Rằng: "Xưa ông có công trình
Kinh thơm ba bộ hoàn thành trước sau 

Tuy rằng hai bộ kinh đầu
Vô hình nhưng lại thấm sâu cõi lòng 
Tâm từ tỏa ngát không trung
So ra vượt bộ sau cùng biết bao!"


Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng hoa vô ưu


Hoa Vô Ưu, ôi diệu kỳ xinh đẹp 

Những cánh hồng ươm sắc đỏ mê say 
Sao linh ứng chọn gốc cây tươi thắm 
Phật mẫu đản sanh Phật của đời này

Kìa nhụy vàng cong cong duyên dáng 

Sáu cánh hoa kiều mỹ ngát hương lành 
Như Sáu Ba-la-mật cao quí quá 
Như Lục đại của thế giới tạo thành

Hùng cứ phủ che bóng trưa râm mát 

Mãi xanh tươi như thuyết Pháp của Ngài 
Dưới bóng cây vui một ngày lịch sử
Một vị cứu tinh xuất thế độ đời!

Sa la - Vô ưu, chỉ Người tư lự …
Xót thương, bận lòng: đau khổ thế nhân 

Theo Ngài chỉ ánh đạo vàng chiếu rọi 
Diệu hương- tinh hoa: Giác ngộ tỏa trần

Lạ lẫm nhụy - Dấu hỏi- đời sao khổ? 

Che lòng hoa phấn mượt vàng tươi 
Nở rực rỡ mừng hài đồng tuyệt thế 
Muôn trước nghìn sau chỉ có một thôi!

Con mong đi, tìm về nơi gốc cội
Nơi xưa Ngài sớm đặt bước anh minh 

Mây gió ru êm bên lòng Phật mẫu 
Sữa thanh cao nuôi tâm đạo an lành.

Xem thêm:

Hoa Vô Ưu

Phật pháp ứng dụng hoa vô ưu


Hoa Vô Ưu, ôi diệu kỳ xinh đẹp 

Những cánh hồng ươm sắc đỏ mê say 
Sao linh ứng chọn gốc cây tươi thắm 
Phật mẫu đản sanh Phật của đời này

Kìa nhụy vàng cong cong duyên dáng 

Sáu cánh hoa kiều mỹ ngát hương lành 
Như Sáu Ba-la-mật cao quí quá 
Như Lục đại của thế giới tạo thành

Hùng cứ phủ che bóng trưa râm mát 

Mãi xanh tươi như thuyết Pháp của Ngài 
Dưới bóng cây vui một ngày lịch sử
Một vị cứu tinh xuất thế độ đời!

Sa la - Vô ưu, chỉ Người tư lự …
Xót thương, bận lòng: đau khổ thế nhân 

Theo Ngài chỉ ánh đạo vàng chiếu rọi 
Diệu hương- tinh hoa: Giác ngộ tỏa trần

Lạ lẫm nhụy - Dấu hỏi- đời sao khổ? 

Che lòng hoa phấn mượt vàng tươi 
Nở rực rỡ mừng hài đồng tuyệt thế 
Muôn trước nghìn sau chỉ có một thôi!

Con mong đi, tìm về nơi gốc cội
Nơi xưa Ngài sớm đặt bước anh minh 

Mây gió ru êm bên lòng Phật mẫu 
Sữa thanh cao nuôi tâm đạo an lành.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng tạm biệt sông Hằng

Tạm biệt 

Varanasi Tôi đi
Tạm biệt Sarnath, Jaipur, Mysore, Bangalore, Chennai, Agra, Delhi
Tạm biệt Ấn Độ văn minh và huyền bí Quê hương của Tất Đạt Đa Cồ Đàm, của Gandhi và Sardar Vallabhbhai Patel, của Maharshi Valmiki và Rabindranath Tagore Tôi đi

Sông Hằng chảy như cuộc đời tôi đang chảy 

Từ đâu tôi không biết
Về đâu tôi không hay. 
Giấc mơ của một hạt cát 
Đã nở thành hoa
Khi đặt tay xuống dòng nước

Sông Hằng êm như như giải lụa Duy Xuyên. 

Buổi sáng ở Sarnath
Nhìn tảng đá nơi Đức Phật có thể đã từng ngồi nhập định
Nghe như có tiếng chân vọng lại 
Từ hai ngàn năm trăm năm

Đôi bàn chân đất, mảnh y vàng, đức Cồ Đàm đi bộ 247 cây số từ Bodhgaya

Vườn Lộc Uyển là đây Tăng đoàn là đây 
Chuyển Pháp Luân là đây Tứ Diệu Đế là đây
Bát Chánh Đạo là đây

Tất cả bắt đầu từ nơi tôi đang đứng 

Rất linh thiêng và rất mực bình thường.
Đứng bên cây bồ đề thuộc thế hệ thứ ba ở Sar-nath
Nghe trong lòng một giọt nước mắt đang rơi 
Niềm vui khi chiếc lá trở về
Cám ơn Đức Bổn Sư và lời dạy của ngài “Thắp đuốc lên mà đi”

Thưa vâng, con đã đi nhiều năm như thế 

Qua những nắng và mưa
Qua con đường lửa máu 
Qua bất hạnh trầm luân. 

Đêm Varanasi
Vang lên những lời kinh cầu nguyện 
Những xác người được hỏa thiêu 
Ngọn lửa lễ Agni Pooja dưới chân Da- shashwamedh Ghat làm sáng rực sông Hằng
Không tiếng khóc Không tiếng cười

Chỉ có lời kinh như bài hát vọng từ xa thẳm 

Khi Lord Brahma chào đón Lord Shiva 
Đời sống dọc sông Hằng đến nay vẫn thế. 

Chiều nay tôi đi
Chặng đường tới là đâu tôi chưa biết
Và cũng chưa có một nơi nhất định để trở về 

Nên quê hương tôi là mênh mông

Quê hương tôi là Việt Nam linh thiêng nhưng cũng là Varanasi huyền bí
Quê hương là tôi là Thu Bồn trong xanh nhưng cũng là sông Hằng mát dịu.
Và một ngày tôi sẽ trở lại thăm Sông Hằng Varanasi

Có thể không còn là con người xương thịt như hôm nay
Mà chỉ là giọt nước
Từ mây trời phương tây xa xôi

Hãy đón giọt nước như đón tôi hôm nay 
Hãy cho tôi cùng chảy với sông

Trong tiếng đàn Sitar và tiếng trống Tabla 

Trong một đêm huyền diệu
Trong buổi sáng lặng yên. 
Tạm biệt sông Hằng
Tạm biệt Varanasi.


Xem thêm:

Tạm biệt sông Hằng

Phật pháp ứng dụng tạm biệt sông Hằng

Tạm biệt 

Varanasi Tôi đi
Tạm biệt Sarnath, Jaipur, Mysore, Bangalore, Chennai, Agra, Delhi
Tạm biệt Ấn Độ văn minh và huyền bí Quê hương của Tất Đạt Đa Cồ Đàm, của Gandhi và Sardar Vallabhbhai Patel, của Maharshi Valmiki và Rabindranath Tagore Tôi đi

Sông Hằng chảy như cuộc đời tôi đang chảy 

Từ đâu tôi không biết
Về đâu tôi không hay. 
Giấc mơ của một hạt cát 
Đã nở thành hoa
Khi đặt tay xuống dòng nước

Sông Hằng êm như như giải lụa Duy Xuyên. 

Buổi sáng ở Sarnath
Nhìn tảng đá nơi Đức Phật có thể đã từng ngồi nhập định
Nghe như có tiếng chân vọng lại 
Từ hai ngàn năm trăm năm

Đôi bàn chân đất, mảnh y vàng, đức Cồ Đàm đi bộ 247 cây số từ Bodhgaya

Vườn Lộc Uyển là đây Tăng đoàn là đây 
Chuyển Pháp Luân là đây Tứ Diệu Đế là đây
Bát Chánh Đạo là đây

Tất cả bắt đầu từ nơi tôi đang đứng 

Rất linh thiêng và rất mực bình thường.
Đứng bên cây bồ đề thuộc thế hệ thứ ba ở Sar-nath
Nghe trong lòng một giọt nước mắt đang rơi 
Niềm vui khi chiếc lá trở về
Cám ơn Đức Bổn Sư và lời dạy của ngài “Thắp đuốc lên mà đi”

Thưa vâng, con đã đi nhiều năm như thế 

Qua những nắng và mưa
Qua con đường lửa máu 
Qua bất hạnh trầm luân. 

Đêm Varanasi
Vang lên những lời kinh cầu nguyện 
Những xác người được hỏa thiêu 
Ngọn lửa lễ Agni Pooja dưới chân Da- shashwamedh Ghat làm sáng rực sông Hằng
Không tiếng khóc Không tiếng cười

Chỉ có lời kinh như bài hát vọng từ xa thẳm 

Khi Lord Brahma chào đón Lord Shiva 
Đời sống dọc sông Hằng đến nay vẫn thế. 

Chiều nay tôi đi
Chặng đường tới là đâu tôi chưa biết
Và cũng chưa có một nơi nhất định để trở về 

Nên quê hương tôi là mênh mông

Quê hương tôi là Việt Nam linh thiêng nhưng cũng là Varanasi huyền bí
Quê hương là tôi là Thu Bồn trong xanh nhưng cũng là sông Hằng mát dịu.
Và một ngày tôi sẽ trở lại thăm Sông Hằng Varanasi

Có thể không còn là con người xương thịt như hôm nay
Mà chỉ là giọt nước
Từ mây trời phương tây xa xôi

Hãy đón giọt nước như đón tôi hôm nay 
Hãy cho tôi cùng chảy với sông

Trong tiếng đàn Sitar và tiếng trống Tabla 

Trong một đêm huyền diệu
Trong buổi sáng lặng yên. 
Tạm biệt sông Hằng
Tạm biệt Varanasi.


Xem thêm:
Đọc thêm..

Phật pháp ứng dụng còn vạn khối tình

Ta còn chút nắng, chút sương
chút hoa lá cỏ, chút vương vấn lòng.
Thì đây núi,
Thì đây sông
Cõi quê hương ấy...
Thuở Hồng-Lạc xưa.
 

Đất trời dù chuyển sang mùa
Nắng mưa nào...
Những sớm trưa cung đàn!
Trải lòng theo dặm quan san
Nghe tê tái
Nỗi niềm mang phận người!
 

Kể từ độ ấy em ơi
Trời Vạn Xuân đã lạnh lời phù vân
Suối nguồn lệ cũ bâng khuâng
Nghe âm ba vọng hồn dân tộc mình.
 

Thì thôi đấy...
Chuyện đã đành,
Thì thôi nhỉ,

Gió qua mành tuyết sương!
Một mai,
Rồi nữa... còn hương
Đêm tàn rựng ánh trời Phương Nam hồng.

Thì đây núi

Thì đây sông
Thì đây muôn vạn tấm lòng nở hoa
Hoàng hôn thế kỷ đi qua
Còn đâu bóng đổ chiều xa gập ghềnh.

Cuối mùa hoạn lộ lênh đênh

Bên trời chim thức ngày lên an bình
Còn đây,
Với cả niềm tin
Và còn đây,

Vạn khối tình quê hương.

Xem thêm:

Còn vạn khối tình


Phật pháp ứng dụng còn vạn khối tình

Ta còn chút nắng, chút sương
chút hoa lá cỏ, chút vương vấn lòng.
Thì đây núi,
Thì đây sông
Cõi quê hương ấy...
Thuở Hồng-Lạc xưa.
 

Đất trời dù chuyển sang mùa
Nắng mưa nào...
Những sớm trưa cung đàn!
Trải lòng theo dặm quan san
Nghe tê tái
Nỗi niềm mang phận người!
 

Kể từ độ ấy em ơi
Trời Vạn Xuân đã lạnh lời phù vân
Suối nguồn lệ cũ bâng khuâng
Nghe âm ba vọng hồn dân tộc mình.
 

Thì thôi đấy...
Chuyện đã đành,
Thì thôi nhỉ,

Gió qua mành tuyết sương!
Một mai,
Rồi nữa... còn hương
Đêm tàn rựng ánh trời Phương Nam hồng.

Thì đây núi

Thì đây sông
Thì đây muôn vạn tấm lòng nở hoa
Hoàng hôn thế kỷ đi qua
Còn đâu bóng đổ chiều xa gập ghềnh.

Cuối mùa hoạn lộ lênh đênh

Bên trời chim thức ngày lên an bình
Còn đây,
Với cả niềm tin
Và còn đây,

Vạn khối tình quê hương.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng góa phụ

Con chim nhào chết khô trên cửa, 

Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm, 
Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ, 
Sao người khai giải chưa về thăm?

Em chạy tìm anh ngoài cõi gió 

Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn, 
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ,
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chân

Em độc thoại lời kinh ánh xanh, 

Trăng lu, khuya mỏi, nén nhang tàn 
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa 
Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn.

Ngọn đèn hư ảo chong linh vị 

Thắp trắng thời gian mái tóc em 
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh 
Hồn xa con đóm lạc sâu đêm.

Cỏ cây sống chết há ta thán 

Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?
Thảng như con ngựa già vô dụng 

Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.

Xem thêm:

Góa phụ

Phật pháp ứng dụng góa phụ

Con chim nhào chết khô trên cửa, 

Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm, 
Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ, 
Sao người khai giải chưa về thăm?

Em chạy tìm anh ngoài cõi gió 

Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn, 
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ,
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chân

Em độc thoại lời kinh ánh xanh, 

Trăng lu, khuya mỏi, nén nhang tàn 
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa 
Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn.

Ngọn đèn hư ảo chong linh vị 

Thắp trắng thời gian mái tóc em 
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh 
Hồn xa con đóm lạc sâu đêm.

Cỏ cây sống chết há ta thán 

Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?
Thảng như con ngựa già vô dụng 

Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng gác kiếm


Thiểu dục khỏi cầu cũng thoát mê 

Tài sắc danh xưng chẳng bận bề 
Vô vi đạo học tâm luôn mở
Giữa chốn phồn hoa biết trở về.

Tri túc cuộc đời đẹp lắm thay 

Nương theo giáo pháp Phật chỉ bày 
Sống vui tu tập trên đường đạo 
Giảm bớt mong cầu trí hiển khai .

Bao năm tham dục khổ đã nhiều 

Nay ta gác kiếm giữa nắng chiều 
Thảnh thơi một túi thơ nguồn đạo 
Ngắm nhìn mây trắng cõi lãng phiêu .

Xem thêm:

Gác kiếm

Phật pháp ứng dụng gác kiếm


Thiểu dục khỏi cầu cũng thoát mê 

Tài sắc danh xưng chẳng bận bề 
Vô vi đạo học tâm luôn mở
Giữa chốn phồn hoa biết trở về.

Tri túc cuộc đời đẹp lắm thay 

Nương theo giáo pháp Phật chỉ bày 
Sống vui tu tập trên đường đạo 
Giảm bớt mong cầu trí hiển khai .

Bao năm tham dục khổ đã nhiều 

Nay ta gác kiếm giữa nắng chiều 
Thảnh thơi một túi thơ nguồn đạo 
Ngắm nhìn mây trắng cõi lãng phiêu .

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng tiễn biệt huynh trưởng

Chiếc mũ vẫn còn đây
Anh đã về cõi khác
Dây Thân Ái chiều nay
Sao chẳng còn ai hát

Chiếc còi vẫn nằm im
Trên bàn xưa trống trải
Khi giọt máu từ tim
Vừa ra đi, đi mãi

Anh sống một cuộc đời
Âm thầm như ngọn núi
Ôm ấp nỗi niềm riêng
Nghe đau mà không nói

Giọt nước mắt mùa xuân
Nhỏ trên từng phiến đá
Như hạt bụi thời gian
Phai theo màu chiếc lá

Đoàn các em hôm nay
Còn rất nhiều khốn khó
Nhìn chiếc áo màu Lam
Thấy tình anh trong đó
Anh sẽ là mũi tên

Trên quãng đường còn lại
Để mai mốt các em
Biết lối về đất trại
Anh sẽ là mật thư
Giấu trong vườn Sen Trắng
Chỉ vỏn vẹn một câu
Tình thương rồi sẽ thắng

Anh sẽ là tiếng còi
Thổi lên lời hy vọng
Để em biết ngày mai
Trời không còn biển động

Anh sẽ là bài ca
Giữa đêm dài hiu hắt
Để em biết hôm qua
Đau thương và nước mắt

Anh sẽ là củi khô
Đốt lên từng ngọn lửa
Sưởi ấm mãi Tình Lam
Và đừng xa nhau nữa.

Nhớ nhé anh chị em, xin
đừng xa nhau nữa!


Xem thêm:

Tiễn biệt huynh trưởng

Phật pháp ứng dụng tiễn biệt huynh trưởng

Chiếc mũ vẫn còn đây
Anh đã về cõi khác
Dây Thân Ái chiều nay
Sao chẳng còn ai hát

Chiếc còi vẫn nằm im
Trên bàn xưa trống trải
Khi giọt máu từ tim
Vừa ra đi, đi mãi

Anh sống một cuộc đời
Âm thầm như ngọn núi
Ôm ấp nỗi niềm riêng
Nghe đau mà không nói

Giọt nước mắt mùa xuân
Nhỏ trên từng phiến đá
Như hạt bụi thời gian
Phai theo màu chiếc lá

Đoàn các em hôm nay
Còn rất nhiều khốn khó
Nhìn chiếc áo màu Lam
Thấy tình anh trong đó
Anh sẽ là mũi tên

Trên quãng đường còn lại
Để mai mốt các em
Biết lối về đất trại
Anh sẽ là mật thư
Giấu trong vườn Sen Trắng
Chỉ vỏn vẹn một câu
Tình thương rồi sẽ thắng

Anh sẽ là tiếng còi
Thổi lên lời hy vọng
Để em biết ngày mai
Trời không còn biển động

Anh sẽ là bài ca
Giữa đêm dài hiu hắt
Để em biết hôm qua
Đau thương và nước mắt

Anh sẽ là củi khô
Đốt lên từng ngọn lửa
Sưởi ấm mãi Tình Lam
Và đừng xa nhau nữa.

Nhớ nhé anh chị em, xin
đừng xa nhau nữa!


Xem thêm:
Đọc thêm..
Tết năm ấy, chú Sáng và các chú trong nhóm Nha Trang đều trở về. Tôi không về mà cùng đi Huế với chú Tửu. Ngày mồng một, tôi đón giao thừa tại Phật học viện. Qua mồng hai, tôi và Tửu mới rời viện để đi Huế. Trước hết, cùng đến chùa Tam Bảo ở Đà Nẵng để gặp chú Tâm Hạnh. Chú Tâm Hạnh như đã nói ở trước, là đệ tử lớn nhất của thầy tôi. 

Ở Phật học viện Phổ Đà, chú ấy là tăng sinh xuất sắc của viện. Nhưng rồi không biết do ảnh hưởng từ kinh điển, từ bạn bè, hay từ sở thích, chú Tâm Hạnh bỗng bỏ Phật giáo Bắc tông để chuyển qua Phật giáo Nam Tông (Theraveda, tức Phật giáo Nguyên thủy). Vì thay đổi tông phái, dĩ nhiên chú không còn theo học Phật học viện Phổ Đà nữa.

Chúng tôi đến Chùa Tam Bảo vào giấc trưa, nhằm lúc chư tăng ở đây đang thọ trai. Chúng tôi đứng ngoài nhìn vào, thấy một bàn đầy các món thịt cá thì giật mình. Dù đã biết trước chuyện chay mặn chẳng quan trọng hay ảnh hưởng gì đến vấn đề giải thoát giác ngộ, chúng tôi cũng chưa dễ chấp nhận được chuyện thịt cá bày ra trong cửa chùa. Chú Tâm Hạnh được thông báo có khách, ra gặp chúng tôi thì mừng rỡ, nhưng cũng nói ngay cho chúng tôi khỏi bỡ ngỡ, thắc mắc:

“Truyền thống Nam tông họ ăn chay khác với ăn chay của mình. Chữ trai, tức là chay, được hiểu là ăn một ngày một bữa vào giờ ngọ và thí chủ dâng cúng thứ gì thì hoan hỷ ăn thứ nấy, không phân biệt. Ăn chay như thế khác với ăn chay theo nghĩa chỉ ăn thực vật như bên Bắc tông mình. Tôi theo họ nhưng cũng chưa quen chuyện cá thịt, vẫn phải ăn chay như xưa.”
 

Biết chúng tôi sắp đi Huế, chú Tâm Hạnh cũng muốn đi. Chú vào thu xếp hành lý, bỏ vào cái đãy nhỏ, theo chúng tôi đi ngay. Ra Huế, chúng tôi được chú Tâm Hạnh đưa đến chùa Thiền Lâm trước. Đây là ngôi chùa thuộc hệ phái Nam Tông, được cất trên núi. Vị Thượng tọa viện trưởng ở đây cũng là một vị thầy từ Bắc tông đổi qua. Thượng tọa cũng quen dùng chay theo Bắc tông nên dù đã chuyển qua Nam tông từ lâu, vẫn cứ dùng thực vật chứ không dùng được cá thịt. 

Lúc chúng tôi đến chùa, Thượng tọa đi vắng chưa về. Dạo cảnh một lúc, chúng tôi được báo cho biết là Thượng tọa đang trên đường hướng về chùa. Thượng tọa có định lực và đức độ rất cao, khi vừa trông thấy ngài từ ngoài bước vào cổng, tự dưng chúng tôi quỳ lạy ngài ngay trên nền đất ở ngoài sân.
Phật pháp ứng dụng phương trời cao rộng

Chúng tôi ở lại đây một đêm. Thượng tọa tế nhị, biết chúng tôi bên Bắc tông ăn chay và có ăn bữa chiều nên cho người xuống núi nhờ một gia đình thí chủ thân tín nấu cháo chay đem lên cho chúng tôi.

Sáng hôm sau, chú Tâm Hạnh đưa chúng tôi đến chùa Linh Mụ và một số chùa nổi tiếng khác như Tường Vân, Kim Tiên, Từ Hiếu, Từ Đàm, Linh Quang v.v... Đến chùa Linh Mụ, chúng tôi tình cờ gặp thầy Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) từ Sài Gòn mới ra. Trước đây, thầy Trí Siêu tu ở chùa này. Chú Tâm Hạnh cho tôi biết thầy ấy là một trong những du học sinh xuất sắc nhất tại Mỹ; thầy ấy đã lấy ba bằng tiến sĩ Y khoa, Nhân chủng học và Triết học. Thầy Trí Siêu mới về nước năm ngoái. Dùng cơm trưa tại chùa Linh Mụ, chúng tôi nghe kể về sinh hoạt học đường tại Mỹ. 


Nghe chuyện du học tôi thấy thích thú, nhưng cái tâm ý quê mùa bảo thủ của tôi lại cảm thấy sợ hãi đời sống Mỹ. Tôi tự nghĩ, nếu được một phép du học, chắc tôi sẽ chọn một nước Á châu nào đó chứ không chọn Mỹ hoặc các nước Âu châu. Dù sao, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi trong bữa ăn cũng mở rộng tầm nhìn của tôi. Nhớ hồi chưa xuất gia, tôi đã từng chán ghét chuyện học. Nỗi chán ghét ấy bây giờ không còn nữa thì phải. Có lẽ tôi đã trưởng thành và đã trở thành một người “hiếu học”! Ồ, du học! Hai chữ ấy nghe thật lôi cuốn.

Trước khi rời Huế, chúng tôi đến thăm viếng Thành nội nhưng người ta bảo là mất an ninh, cấm vào. Lại là hậu quả của chiến tranh. Đành ở chơi phía ngoài Phu Văn Lâu rồi ra bến xe, trở về.

Chúng tôi không về thẳng Đà Nẵng mà xuống xe tại Lăng Cô, gần đèo Hải Vân. Nơi đây có tịnh thất Huyền Không của sư Viên Minh và sư Giới Đức, hai vị sư trẻ và lỗi lạc của Phật giáo Nam tông. Huyền Không là tên gọi chung vài cái cốc nhỏ được cất trên một ngọn núi ở Lăng Cô. Mỗi sư có một cốc riêng. Ngoài ra còn có một thư viện nhỏ, nhiều sách. Cốc đều được cất bằng gỗ, đánh vẹt-ni bóng loáng. Mái lợp bằng lá dừa, rất đẹp và mát. Cốc có bốn vách vuông vức, với một cửa chính và hai cửa sổ lớn mở ra hai bên, khoảng khoát. Hai mái lợp đứng, kiểu tháp, như của Thái- Miên. Cửa chính của thư viện mở ra phía biển ở xa xa. Tôi thầm nghĩ: “Ẩn tu nơi một cảnh trí hữu tình thơ mộng như vầy thì còn gì sung sướng bằng...

Tuy nhiên, có phải chăng, khi người tu say đắm cảnh đẹp thiên nhiên thì cũng có thể say đắm vào sắc dục hay bất cứ vẻ quyến rũ nào khác của cuộc đời? Vì thực ra, điều cốt yếu của giải thoát là dẹp bỏ sự say đắm chứ đâu phải dẹp bỏ hay xa lìa những đối tượng, đối cảnh...”

Dù sao, tôi cũng không ngăn được sự rung động trước một cảnh trời mênh mông tuyệt đẹp như vầy. Bờ biển Lăng Cô đá lớn, đá nhỏ mọc lởm chởm. Sóng vỗ ì ầm đánh tung bọt trắng trên những tảng đá phủ rêu ấy. Thuyền chài dăm chiếc như đứng lặng ngoài khơi. Nơi đây còn hoang sơ thơ mộng hơn núi đồi Trại Thủy Nha Trang. Tôi đứng chết sững trên núi, nhìn về muôn dặm xa, nơi mà sóng biển trườn lên, níu lấy chân trời. Vẫn có cái gì khó hiểu, mơ hồ nhưng đầy hấp lực nơi khoảng trời xa ấy.
 

Khi chúng tôi vào học lại đâu được một tuần thì có Thượng tọa Đỗng Minh từ Nha Trang đi Huế và Đà Nẵng, ghé thăm Phật học viện. Thượng tọa là giám đốc xưởng vị trai Lá Bồ Đề, một cơ sở sản xuất khá qui mô của Tỉnh giáo hội Nha Trang. Thượng tọa cũng là giám học của Phật học viện Hải Đức, và trong Viện Hóa Đạo, Thượng tọa là Vụ trưởng Vụ Phật học viện. 

Đây là chuyến công du thăm viếng các Phật học viện trên toàn quốc để nghe ngóng tình hình sinh hoạt của các Phật học viện đồng thời thông báo các chương trình đặc biệt của Vụ Phật học viện nhằm nâng đỡ các học tăng xuất sắc. Dĩ nhiên đó là chuyện mà Thượng tọa Đỗng Minh bàn riêng với Thượng tọa giám viện và ban giám học, học tăng chúng tôi không sao biết được. Nhưng sau đó, tin tức cũng đến tai tôi, do thầy Giải Trọng, vị giám sự của Phật học viện kể lại. Tin ấy quả thực làm tôi phấn khởi vô cùng.

Với sự hỗ trợ của Giáo hội trung ương, Vụ Phật học viện tìm cách cho đi du học các tăng sĩ xuất sắc ở các địa phương, đặc biệt là các học tăng đang theo học tại các Phật học viện toàn quốc. Chuyện đi du học ở quốc gia nào thì chưa rõ, có lẽ còn tùy thuộc ở điều kiện tài chánh cũng như sự vận động ngoại giao của Giáo hội trung ương. Nhưng riêng Ấn Độ và Thái Lan thì đã rõ: Giáo hội có thể cho tăng sĩ thành niên hay vị thành niên đi du học tại hai nước này. Thầy Giải Trọng nói với tôi:

“Phật học viện mình sẽ giới thiệu vài học tăng, hay ít nhất cũng một học tăng. Chú nào được chọn thì chưa biết, nhưng chú Khang thì nghe Thượng tọa giám viện có thưa chuyện trước với Thượng tọa Đỗng Minh rồi. Chắc chắn là chú được chọn vì là tăng sinh xuất sắc nhất của viện. Chỉ cần trau dồi thêm tiếng Anh nữa là xong. Trình độ trung học cũng qua Ấn học được chứ không cần phải xong Tú tài hay bậc Đại học.”

Tôi vẫn thường có ước mơ được hành hương xứ Phật. Nhưng tôi không thể tưởng được rằng ước mơ ấy có thể đến với tôi dễ dàng và kề cận như vậy. Mặc dù chưa có tin chính thức nào trên văn bản, tôi vẫn thấy đó là điều có thể xảy ra, hầu như không còn là ước mơ nữa mà sắp trở thành hiện thực. Ừ nhỉ, mới hôm Tết gặp thầy Trí Siêu, không phải tôi đã nẩy sinh trong lòng ước muốn được du học đó sao! Sợ không thích hợp với Mỹ quốc thì du học Ấn Độ, cũng là du học thôi. Nhưng ở Ấn Độ còn thăm viếng các Phật tích, được sống lại với khung trời cũ một thời lưu dấu chân Phật.

Tuổi trẻ có nhiều ước mơ. Ước mơ này chồng lên ước mơ kia. Cái nào mạnh thì trùm lấn. Cái nào kề cận dễ thành thì nổi bật. Khi chuyện giáo hội nâng đỡ học tăng du học đến tai tôi, ước mơ xuất ngoại bỗng lớn nhanh như thổi. Nó chiếm khá nhiều thì giờ rảnh của tôi. Tôi tìm đọc thêm và đọc lại một số sách về lịch sử Ấn Độ cũng như các sách viết về những Phật tích. Có khi tôi nằm mơ thấy mình đang đứng bên cội cây bồ đề mà năm xưa đức Phật thành đạo.

Nhưng chỉ vài ngày sau, có tin Tổng thống ra lệnh tổng động viên các tu sĩ Phật giáo trong tuổi quân dịch nếu những vị này xuất gia chưa được năm năm. Lệnh ấy không ảnh hưởng gì đến cá nhân tôi cả, vì lúc ấy tôi chỉ mới mười sáu tuổi, chưa đến tuổi quân dịch, còn thời gian xuất gia thì tôi cũng chỉ còn vài tháng nữa là được năm năm rồi. Tuy nhiên, lệnh tổng động viên này đã làm chấn động, xôn xao trong giới tu sĩ trẻ Phật giáo. Viện tôi có khoảng mười chú dính vào lệnh tổng động viên này. Tin đồn rằng có thể chính phủ sẽ động viên những tu sĩ trong tuổi quân dịch chứ không loại trừ những người xuất gia trên năm năm. 


Tôi biết có nhiều chú xuất gia từ nhỏ, nhưng ở chùa không hề làm cho một tờ giấy gì để chứng minh ngày tháng xuất gia của họ. Nhất là ở các chùa tư (học tăng chúng tôi thường gọi như vậy để phân biệt với Phật học viện) và các chùa ở thôn quê, xuất gia thì xuất gia, chẳng ai nghĩ đến chuyện làm giấy tờ gì. Bây giờ gặp chuyện mới giật mình. Nhiều chú lo viết thư về chùa gốc của mình để xin thầy bổn sư tìm cách chứng minh. Không khí trong viện thật căng thẳng. Tôi nhìn các chú trong tuổi quân dịch mà thấy ngậm ngùi, thương cảm. Tôi không thể tưởng tượng được những chú tiểu quanh năm suốt tháng, tụng kinh, niệm Phật, ăn chay giữ giới lại có thể cầm súng ra trận để bắn vào đối phương. Những chú tiểu ấy, đến con kiến cũng không dám giết. Lỡ có bị kiến cắn nhè nhẹ tay mà gỡ nó ra, thả cho nó bò đi chỗ khác. Bước chân đi cũng sợ chết oan những loài sâu bọ dưới đất, cứ phải đọc bài chú nguyện để cầu nguyện sẵn cho loài nào vô tình bị chết dưới những bước chân của mình. 

Tâm tư hạnh nguyện như vậy đó, bây giờ phải ra cầm súng bắn giết, có phải là điều trớ trêu lắm không? Chú Đồng Nguyện, thư ký văn phòng của Phật học viện, đưa nhật báo cho chúng tôi xem. Báo chí đăng liên tục về lệnh tổng động viên ấy. Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lúc đó là Hòa thượng Thích Trí Thủ, đang vận động chính phủ bãi bỏ lệnh tổng động viên nhắm vào tu sĩ Phật giáo. Chưa biết kết quả thế nào. Báo chí còn ước chừng số tu sĩ Phật giáo cả nước nằm trong tuổi quân dịch (không kể là đã xuất gia được bao lâu) là mười ngàn người. Có chú buột miệng nói:

“Một đạo quân lớn! Đạo quân hòa bình! Cứ xếp hàng ra đứng ở giữa hai phe đang bắn giết nhau, kêu gọi họ ngưng bắn, vậy là có hòa bình rồi nhỉ!”

Các chú cùng cười. Có chú chêm vào thêm:

“Không, mười ngàn người thì mình chia ra làm hai: năm ngàn người cầm mõ, năm ngàn người cầm chuông, ra trận cứ gõ lên mà tụng vang bài chú Đại Bi là Việt cộng cũng chạy trốn hết!”
Đến nước này mà còn giỡn như vậy thì chỉ còn biết cười ra nước mắt. Nhưng thực tế có thể là vậy. Vũ khí của người tăng sĩ Phật giáo chỉ có lòng thương rộng lớn (đại bi) mà thôi. Mọi hành xử của họ đối với con người, đối với cuộc đời, đều do sự tác động của lòng thương. Và nếu trực diện với hận thù, tàn ác, những con người này chỉ biết lấy lòng thương để đáp lại chứ chẳng có tâm địa nào khác hơn.

Tình hình chiến sự trong nước càng lúc càng sôi bỏng. Chúng tôi, dù muốn dù không, cũng phải nghe biết. Mỗi ngày chúng tôi vẫn cắp sách đến trường, nhưng tinh thần học coi mòi đã xuống dốc. Không khí lớp học cũng rời rã. Giáo sư vào lớp chỉ nói chuyện chính trị. Thầy Viêm chủ nhiệm lớp tôi đã có lệnh gọi đi tác chiến. Không biết thầy ấy ra đi có mang theo hình ảnh “Mơ hòa bình ” của đặc san lớp học không. Rồi nghe rằng có lệnh rút quân của Tổng thống. Nghe rằng Buôn Mê Thuột đã bị mất. Nghe rằng các tỉnh cao nguyên nối tiếp nhau, rơi vào tay Việt cộng. 


Đến nước đó thì các giáo sư hết mở lời, vào lớp chỉ ngồi thừ ra, im lặng, ngó mông lung ngoài cửa sổ, hút thuốc tự nhiên trước mặt học sinh, thỉnh thoảng lại ngáp dài. Học sinh uể oải theo. Thầy Châu giám học vào lớp cho biết toàn trường phải lo thi đệ nhị lục cá nguyệt sớm hơn một tháng. Tình hình căng quá, học và thi cũng phải rút ngắn lại. Thầy giám học làm xong nhiệm vụ thông báo mà vẫn không muốn rời khỏi lớp tôi. Trong lớp học có nhiều tu sĩ, nhiều chú tiểu ngây thơ như lớp tôi, có lẽ thầy muốn nấn ná tâm sự hay giải bày gì đó. Nhưng rồi thầy cũng phải bước ra. Nhìn chúng tôi lần cuối, nhún vai, rồi đi thẳng... Có cái gì đó sắp xảy ra rồi.

Ở viện, Thượng tọa giám viện và ban giám đốc thường cùng nghe đài VOA, BBC và đài phát thanh Sài Gòn vào mỗi sáng sớm và chiều tối. Báo chí đến Hội An thường chậm trễ và hiếm. Chỉ có ra-đi -ô là có thể mang lại tin tức nhanh chóng nhất cho Phật học viện chúng tôi mà thôi. Mỗi ngày tin tức càng nóng bỏng, sôi sục hơn. Các thầy ngồi nghe không biết đã nghe được gì, chỉ thấy thầy thì lắc đầu, thầy thì thở dài. Không khí tu học ở viện cũng bị ảnh hưởng tin tức thời sự không ít. Thượng tọa giám viện có vẻ buồn, thường trầm ngâm, giảng không hứng thú nữa. Các giờ học khác đều được cho nghỉ sớm. Có giờ được nghỉ hẳn.

Nhưng chưa có lệnh nghỉ thì học tăng chúng tôi như thường lệ, vẫn cứ xếp hàng dọc xuống trường Bồ Đề mỗi chiều (năm ngoái là buổi sáng, năm nay đổi lại). Con đường từ viện ra đến đường nhựa gần hai cây số đường đất, vẫn êm đềm lặng lẽ chạy vòng qua những rặng tre và đồng ruộng xanh ngát dưới cơn nắng cuối xuân. Có những con chim nhảy nhót trên bụi dâm bụt nhà ai. Dăm con cò trắng chậm rãi bước trên khoảng ruộng ngập nước. Bầu trời không mây xanh ngắt một màu. Chúng tôi bước đi một đoàn người, mà nghe không khí tịch mịch, im vắng kỳ lạ. Nhưng vừa đến khoảng đầu đường, chỗ quán bánh mì bà Đạo, chúng tôi bỗng nghe tiếng ồn ào huyên náo dễ sợ như vỡ ra ở phía trước.

Chúng tôi tiếp tục bước đến chỗ giáp với đường nhựa thì không thể bước qua đường được nữa. Đoàn tăng sinh tự động tan hàng một cách bỡ ngỡ, bàng hoàng vì cảnh tượng xảy ra trước mắt: một dòng nườm nượp xe cộ và người.

Xe cộ ùn ùn chạy qua, còi xe bấm inh ỏi, tiếng người la hét, gào thét vang rần. Nhiều người tay ẵm tay dắt mấy đứa con, vừa chạy vừa khóc. Xe lớn, xe nhỏ, xe gắn máy, xe đạp, xích lô, xe bò... và cả những người chạy bộ, đều rần rần hướng về phía Đà Nẵng. Những khuôn mặt cuống quít chạy qua đều hớt hơ hớt hãi, xanh lét xanh lè, trông thật thảm hại. Tưởng chừng chưa có niềm khiếp sợ nào to lớn hơn. 


Chú Tường dạn dĩ chận người quen lại hỏi thăm chuyện gì mà mọi người bỏ chạy hoảng loạn như vậy. Có người chỉ kịp lắc đầu rồi tiếp tục chạy, có người chẳng nói một tiếng. Cuối cùng mới có người trả lời gọn một câu: “Việt cộng đánh chiếm Quảng Ngãi hồi trưa nay.” Té ra là vậy. Tin đồn lan đi rất nhanh ở thị xã Hội An từ những đồng bào ở Quảng Ngãi chạy trốn Việt cộng theo ngả biển vào cửa Đại (cửa biển của Hội An) . Chẳng biết đài phát thanh đã thông báo tin ấy chưa mà đồng bào Hội An đã tuôn chạy như vầy rồi.

Nhiều chú nghe chuyện đã muốn quay về nhưng chú chúng trưởng bảo cứ đi thẳng xuống trường Bồ Đề coi có được phép nghỉ học chưa. Vậy là theo kỷ luật tập thể, chúng tôi cứ ngược dòng thác người đó mà đi. Đúng là một dòng thác người, cuồn cuộn chảy tới, không có khe hở, không có ngừng nghỉ. 


Ở bến xe Hội An -Đà Nẵng, cứ mỗi chiếc xe đò từ Đà Nẵng vừa cập bến, người ở trên chưa kịp bước xuống thì người ở dưới đã nhảy phóc lên, giành giật chỗ ngồi, la hét ỏm tỏi. Nhưng người từ Đà Nẵng về thì chỉ lác đác. Có lẽ họ có việc phải về Hội An để thu xếp chi đó. Có xe từ Đà Nẵng về chỉ là xe không. Hành khách đứng ngồi chật cứng ở bến xe. Xe chưa đậu hẳn là đã hết chỗ ngồi. Nhiều người nhảy đại lên mui, tự xếp hành lý và chỗ ngồi cho mình và gia đình. 

Học tăng chúng tôi hơn bốn chục người bây giờ nhìn lại chẳng thấy ai. Tản mác ở đâu hết rồi. Chúng tôi lạc nhau, chúng tôi tan loãng vào giữa dòng người. Quanh tôi chỉ còn Sáng và Hưng. Có lẽ vì chúng tôi bước chậm. Chúng tôi lần mò đi được một đoạn thì lại lạc mất chú Hưng. Chỉ còn tôi và Sáng. Giữa dòng người ùn ùn kéo chạy, chúng tôi bỗng thấy lạc lõng, bơ vơ. Người ta dắt díu nhau bỏ chạy, nào cha nào mẹ, nào anh chị em khắng khít đùm bọc nhau. 

Chúng tôi thì lững thững bước. Không người thân bên cạnh. Các chú khác đã quay về Phật học viện hoặc tụ lại với nhau ở một địa điểm nào rồi. Tôi nhìn Sáng, tự dưng thấy tội nghiệp và thương chú quá. Dù sao thì Sáng cũng nhỏ hơn tôi hai tuổi. Lần đầu tiên, tôi nắm lấy tay chú dắt đi như dắt một đứa em nhỏ. Tôi muốn an ủi và tỏ chút tình huynh đệ với chú trong lúc chạy loạn này. 

Tưởng là mình lớn hơn bảo bọc chú, trấn an chú, nào ngờ khi đi ngang một cây xăng nhỏ bỗng nghe nổ một tiếng “ầm,” lửa phực cháy, chú Sáng vụt khỏi tay tôi, bỏ chạy, lanh như con mèo. Tôi chỉ vừa quay đầu ngó vào cây xăng, rồi ngoảnh lại đã thấy chú đứng cách xa mình cả hai chục thước. Thấy không có gì xảy ra, chú mới dừng lại để chờ tôi. Người chủ cây xăng đã dập lửa kịp thời. Khi tôi bước theo kịp, chú Sáng nói một câu chữa thẹn: “Tưởng đâu có bom đạn gì nổ chứ!”

Chú ấy có vẻ xấu hổ khi bỏ tôi mà chạy vì một chuyện không đáng gì. Nhưng tôi chẳng chấp trách gì chuyện đó. Tôi chỉ tự hỏi, nếu cây xăng nổ tung, có phải là một người chậm chạp, khờ khạo và khư khư giữ lấy oai nghi tế hạnh như tôi sẽ không thể nào tránh khỏi tai nạn lớn chăng? Đây là do sự định tâm lâu ngày mà tôi bình tĩnh trước hoàn cảnh hay chỉ vì bản năng tự vệ và phản ứng cơ thể của tôi bị chậm lụt, trì trệ?

Đi thêm một khúc đường, chúng tôi gặp các chú đi trước quay ngược trở lại. Các chú kéo chúng tôi cùng về viện. Họ nói:

“Trường Bồ Đề cũng đã đóng cửa. Không có ai ở đó cả. Ông cai trường cũng kéo gia đình chạy đi rồi!”

Lối về ngang qua đồng ruộng và rặng tre xanh, nhưng lòng tôi đã nặng trĩu. Mấy con chim từ bờ dậu nhà ai hoảng hốt bay về phía mộ địa. Đàn cò trắng cũng đã bay đi đâu mất dạng phương nào rồi.

Vào bữa cơm chiều hôm ấy. Thượng tọa giám viện tuyên bố giải tán Phật học viện. Ai nấy nghẹn ngào nuốt cơm không vô nữa. Học tăng chúng tôi biết chuyện học, chuyện tu của mình rồi sẽ bị chướng ngại, gián đoạn, bao mộng ước lớn nhỏ đều tan vỡ, và chúng tôi chỉ còn chung sống với nhau một đêm cuối cùng này nữa thôi.


Xem thêm:

Phương trời cao rộng

Tết năm ấy, chú Sáng và các chú trong nhóm Nha Trang đều trở về. Tôi không về mà cùng đi Huế với chú Tửu. Ngày mồng một, tôi đón giao thừa tại Phật học viện. Qua mồng hai, tôi và Tửu mới rời viện để đi Huế. Trước hết, cùng đến chùa Tam Bảo ở Đà Nẵng để gặp chú Tâm Hạnh. Chú Tâm Hạnh như đã nói ở trước, là đệ tử lớn nhất của thầy tôi. 

Ở Phật học viện Phổ Đà, chú ấy là tăng sinh xuất sắc của viện. Nhưng rồi không biết do ảnh hưởng từ kinh điển, từ bạn bè, hay từ sở thích, chú Tâm Hạnh bỗng bỏ Phật giáo Bắc tông để chuyển qua Phật giáo Nam Tông (Theraveda, tức Phật giáo Nguyên thủy). Vì thay đổi tông phái, dĩ nhiên chú không còn theo học Phật học viện Phổ Đà nữa.

Chúng tôi đến Chùa Tam Bảo vào giấc trưa, nhằm lúc chư tăng ở đây đang thọ trai. Chúng tôi đứng ngoài nhìn vào, thấy một bàn đầy các món thịt cá thì giật mình. Dù đã biết trước chuyện chay mặn chẳng quan trọng hay ảnh hưởng gì đến vấn đề giải thoát giác ngộ, chúng tôi cũng chưa dễ chấp nhận được chuyện thịt cá bày ra trong cửa chùa. Chú Tâm Hạnh được thông báo có khách, ra gặp chúng tôi thì mừng rỡ, nhưng cũng nói ngay cho chúng tôi khỏi bỡ ngỡ, thắc mắc:

“Truyền thống Nam tông họ ăn chay khác với ăn chay của mình. Chữ trai, tức là chay, được hiểu là ăn một ngày một bữa vào giờ ngọ và thí chủ dâng cúng thứ gì thì hoan hỷ ăn thứ nấy, không phân biệt. Ăn chay như thế khác với ăn chay theo nghĩa chỉ ăn thực vật như bên Bắc tông mình. Tôi theo họ nhưng cũng chưa quen chuyện cá thịt, vẫn phải ăn chay như xưa.”
 

Biết chúng tôi sắp đi Huế, chú Tâm Hạnh cũng muốn đi. Chú vào thu xếp hành lý, bỏ vào cái đãy nhỏ, theo chúng tôi đi ngay. Ra Huế, chúng tôi được chú Tâm Hạnh đưa đến chùa Thiền Lâm trước. Đây là ngôi chùa thuộc hệ phái Nam Tông, được cất trên núi. Vị Thượng tọa viện trưởng ở đây cũng là một vị thầy từ Bắc tông đổi qua. Thượng tọa cũng quen dùng chay theo Bắc tông nên dù đã chuyển qua Nam tông từ lâu, vẫn cứ dùng thực vật chứ không dùng được cá thịt. 

Lúc chúng tôi đến chùa, Thượng tọa đi vắng chưa về. Dạo cảnh một lúc, chúng tôi được báo cho biết là Thượng tọa đang trên đường hướng về chùa. Thượng tọa có định lực và đức độ rất cao, khi vừa trông thấy ngài từ ngoài bước vào cổng, tự dưng chúng tôi quỳ lạy ngài ngay trên nền đất ở ngoài sân.
Phật pháp ứng dụng phương trời cao rộng

Chúng tôi ở lại đây một đêm. Thượng tọa tế nhị, biết chúng tôi bên Bắc tông ăn chay và có ăn bữa chiều nên cho người xuống núi nhờ một gia đình thí chủ thân tín nấu cháo chay đem lên cho chúng tôi.

Sáng hôm sau, chú Tâm Hạnh đưa chúng tôi đến chùa Linh Mụ và một số chùa nổi tiếng khác như Tường Vân, Kim Tiên, Từ Hiếu, Từ Đàm, Linh Quang v.v... Đến chùa Linh Mụ, chúng tôi tình cờ gặp thầy Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) từ Sài Gòn mới ra. Trước đây, thầy Trí Siêu tu ở chùa này. Chú Tâm Hạnh cho tôi biết thầy ấy là một trong những du học sinh xuất sắc nhất tại Mỹ; thầy ấy đã lấy ba bằng tiến sĩ Y khoa, Nhân chủng học và Triết học. Thầy Trí Siêu mới về nước năm ngoái. Dùng cơm trưa tại chùa Linh Mụ, chúng tôi nghe kể về sinh hoạt học đường tại Mỹ. 


Nghe chuyện du học tôi thấy thích thú, nhưng cái tâm ý quê mùa bảo thủ của tôi lại cảm thấy sợ hãi đời sống Mỹ. Tôi tự nghĩ, nếu được một phép du học, chắc tôi sẽ chọn một nước Á châu nào đó chứ không chọn Mỹ hoặc các nước Âu châu. Dù sao, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi trong bữa ăn cũng mở rộng tầm nhìn của tôi. Nhớ hồi chưa xuất gia, tôi đã từng chán ghét chuyện học. Nỗi chán ghét ấy bây giờ không còn nữa thì phải. Có lẽ tôi đã trưởng thành và đã trở thành một người “hiếu học”! Ồ, du học! Hai chữ ấy nghe thật lôi cuốn.

Trước khi rời Huế, chúng tôi đến thăm viếng Thành nội nhưng người ta bảo là mất an ninh, cấm vào. Lại là hậu quả của chiến tranh. Đành ở chơi phía ngoài Phu Văn Lâu rồi ra bến xe, trở về.

Chúng tôi không về thẳng Đà Nẵng mà xuống xe tại Lăng Cô, gần đèo Hải Vân. Nơi đây có tịnh thất Huyền Không của sư Viên Minh và sư Giới Đức, hai vị sư trẻ và lỗi lạc của Phật giáo Nam tông. Huyền Không là tên gọi chung vài cái cốc nhỏ được cất trên một ngọn núi ở Lăng Cô. Mỗi sư có một cốc riêng. Ngoài ra còn có một thư viện nhỏ, nhiều sách. Cốc đều được cất bằng gỗ, đánh vẹt-ni bóng loáng. Mái lợp bằng lá dừa, rất đẹp và mát. Cốc có bốn vách vuông vức, với một cửa chính và hai cửa sổ lớn mở ra hai bên, khoảng khoát. Hai mái lợp đứng, kiểu tháp, như của Thái- Miên. Cửa chính của thư viện mở ra phía biển ở xa xa. Tôi thầm nghĩ: “Ẩn tu nơi một cảnh trí hữu tình thơ mộng như vầy thì còn gì sung sướng bằng...

Tuy nhiên, có phải chăng, khi người tu say đắm cảnh đẹp thiên nhiên thì cũng có thể say đắm vào sắc dục hay bất cứ vẻ quyến rũ nào khác của cuộc đời? Vì thực ra, điều cốt yếu của giải thoát là dẹp bỏ sự say đắm chứ đâu phải dẹp bỏ hay xa lìa những đối tượng, đối cảnh...”

Dù sao, tôi cũng không ngăn được sự rung động trước một cảnh trời mênh mông tuyệt đẹp như vầy. Bờ biển Lăng Cô đá lớn, đá nhỏ mọc lởm chởm. Sóng vỗ ì ầm đánh tung bọt trắng trên những tảng đá phủ rêu ấy. Thuyền chài dăm chiếc như đứng lặng ngoài khơi. Nơi đây còn hoang sơ thơ mộng hơn núi đồi Trại Thủy Nha Trang. Tôi đứng chết sững trên núi, nhìn về muôn dặm xa, nơi mà sóng biển trườn lên, níu lấy chân trời. Vẫn có cái gì khó hiểu, mơ hồ nhưng đầy hấp lực nơi khoảng trời xa ấy.
 

Khi chúng tôi vào học lại đâu được một tuần thì có Thượng tọa Đỗng Minh từ Nha Trang đi Huế và Đà Nẵng, ghé thăm Phật học viện. Thượng tọa là giám đốc xưởng vị trai Lá Bồ Đề, một cơ sở sản xuất khá qui mô của Tỉnh giáo hội Nha Trang. Thượng tọa cũng là giám học của Phật học viện Hải Đức, và trong Viện Hóa Đạo, Thượng tọa là Vụ trưởng Vụ Phật học viện. 

Đây là chuyến công du thăm viếng các Phật học viện trên toàn quốc để nghe ngóng tình hình sinh hoạt của các Phật học viện đồng thời thông báo các chương trình đặc biệt của Vụ Phật học viện nhằm nâng đỡ các học tăng xuất sắc. Dĩ nhiên đó là chuyện mà Thượng tọa Đỗng Minh bàn riêng với Thượng tọa giám viện và ban giám học, học tăng chúng tôi không sao biết được. Nhưng sau đó, tin tức cũng đến tai tôi, do thầy Giải Trọng, vị giám sự của Phật học viện kể lại. Tin ấy quả thực làm tôi phấn khởi vô cùng.

Với sự hỗ trợ của Giáo hội trung ương, Vụ Phật học viện tìm cách cho đi du học các tăng sĩ xuất sắc ở các địa phương, đặc biệt là các học tăng đang theo học tại các Phật học viện toàn quốc. Chuyện đi du học ở quốc gia nào thì chưa rõ, có lẽ còn tùy thuộc ở điều kiện tài chánh cũng như sự vận động ngoại giao của Giáo hội trung ương. Nhưng riêng Ấn Độ và Thái Lan thì đã rõ: Giáo hội có thể cho tăng sĩ thành niên hay vị thành niên đi du học tại hai nước này. Thầy Giải Trọng nói với tôi:

“Phật học viện mình sẽ giới thiệu vài học tăng, hay ít nhất cũng một học tăng. Chú nào được chọn thì chưa biết, nhưng chú Khang thì nghe Thượng tọa giám viện có thưa chuyện trước với Thượng tọa Đỗng Minh rồi. Chắc chắn là chú được chọn vì là tăng sinh xuất sắc nhất của viện. Chỉ cần trau dồi thêm tiếng Anh nữa là xong. Trình độ trung học cũng qua Ấn học được chứ không cần phải xong Tú tài hay bậc Đại học.”

Tôi vẫn thường có ước mơ được hành hương xứ Phật. Nhưng tôi không thể tưởng được rằng ước mơ ấy có thể đến với tôi dễ dàng và kề cận như vậy. Mặc dù chưa có tin chính thức nào trên văn bản, tôi vẫn thấy đó là điều có thể xảy ra, hầu như không còn là ước mơ nữa mà sắp trở thành hiện thực. Ừ nhỉ, mới hôm Tết gặp thầy Trí Siêu, không phải tôi đã nẩy sinh trong lòng ước muốn được du học đó sao! Sợ không thích hợp với Mỹ quốc thì du học Ấn Độ, cũng là du học thôi. Nhưng ở Ấn Độ còn thăm viếng các Phật tích, được sống lại với khung trời cũ một thời lưu dấu chân Phật.

Tuổi trẻ có nhiều ước mơ. Ước mơ này chồng lên ước mơ kia. Cái nào mạnh thì trùm lấn. Cái nào kề cận dễ thành thì nổi bật. Khi chuyện giáo hội nâng đỡ học tăng du học đến tai tôi, ước mơ xuất ngoại bỗng lớn nhanh như thổi. Nó chiếm khá nhiều thì giờ rảnh của tôi. Tôi tìm đọc thêm và đọc lại một số sách về lịch sử Ấn Độ cũng như các sách viết về những Phật tích. Có khi tôi nằm mơ thấy mình đang đứng bên cội cây bồ đề mà năm xưa đức Phật thành đạo.

Nhưng chỉ vài ngày sau, có tin Tổng thống ra lệnh tổng động viên các tu sĩ Phật giáo trong tuổi quân dịch nếu những vị này xuất gia chưa được năm năm. Lệnh ấy không ảnh hưởng gì đến cá nhân tôi cả, vì lúc ấy tôi chỉ mới mười sáu tuổi, chưa đến tuổi quân dịch, còn thời gian xuất gia thì tôi cũng chỉ còn vài tháng nữa là được năm năm rồi. Tuy nhiên, lệnh tổng động viên này đã làm chấn động, xôn xao trong giới tu sĩ trẻ Phật giáo. Viện tôi có khoảng mười chú dính vào lệnh tổng động viên này. Tin đồn rằng có thể chính phủ sẽ động viên những tu sĩ trong tuổi quân dịch chứ không loại trừ những người xuất gia trên năm năm. 


Tôi biết có nhiều chú xuất gia từ nhỏ, nhưng ở chùa không hề làm cho một tờ giấy gì để chứng minh ngày tháng xuất gia của họ. Nhất là ở các chùa tư (học tăng chúng tôi thường gọi như vậy để phân biệt với Phật học viện) và các chùa ở thôn quê, xuất gia thì xuất gia, chẳng ai nghĩ đến chuyện làm giấy tờ gì. Bây giờ gặp chuyện mới giật mình. Nhiều chú lo viết thư về chùa gốc của mình để xin thầy bổn sư tìm cách chứng minh. Không khí trong viện thật căng thẳng. Tôi nhìn các chú trong tuổi quân dịch mà thấy ngậm ngùi, thương cảm. Tôi không thể tưởng tượng được những chú tiểu quanh năm suốt tháng, tụng kinh, niệm Phật, ăn chay giữ giới lại có thể cầm súng ra trận để bắn vào đối phương. Những chú tiểu ấy, đến con kiến cũng không dám giết. Lỡ có bị kiến cắn nhè nhẹ tay mà gỡ nó ra, thả cho nó bò đi chỗ khác. Bước chân đi cũng sợ chết oan những loài sâu bọ dưới đất, cứ phải đọc bài chú nguyện để cầu nguyện sẵn cho loài nào vô tình bị chết dưới những bước chân của mình. 

Tâm tư hạnh nguyện như vậy đó, bây giờ phải ra cầm súng bắn giết, có phải là điều trớ trêu lắm không? Chú Đồng Nguyện, thư ký văn phòng của Phật học viện, đưa nhật báo cho chúng tôi xem. Báo chí đăng liên tục về lệnh tổng động viên ấy. Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lúc đó là Hòa thượng Thích Trí Thủ, đang vận động chính phủ bãi bỏ lệnh tổng động viên nhắm vào tu sĩ Phật giáo. Chưa biết kết quả thế nào. Báo chí còn ước chừng số tu sĩ Phật giáo cả nước nằm trong tuổi quân dịch (không kể là đã xuất gia được bao lâu) là mười ngàn người. Có chú buột miệng nói:

“Một đạo quân lớn! Đạo quân hòa bình! Cứ xếp hàng ra đứng ở giữa hai phe đang bắn giết nhau, kêu gọi họ ngưng bắn, vậy là có hòa bình rồi nhỉ!”

Các chú cùng cười. Có chú chêm vào thêm:

“Không, mười ngàn người thì mình chia ra làm hai: năm ngàn người cầm mõ, năm ngàn người cầm chuông, ra trận cứ gõ lên mà tụng vang bài chú Đại Bi là Việt cộng cũng chạy trốn hết!”
Đến nước này mà còn giỡn như vậy thì chỉ còn biết cười ra nước mắt. Nhưng thực tế có thể là vậy. Vũ khí của người tăng sĩ Phật giáo chỉ có lòng thương rộng lớn (đại bi) mà thôi. Mọi hành xử của họ đối với con người, đối với cuộc đời, đều do sự tác động của lòng thương. Và nếu trực diện với hận thù, tàn ác, những con người này chỉ biết lấy lòng thương để đáp lại chứ chẳng có tâm địa nào khác hơn.

Tình hình chiến sự trong nước càng lúc càng sôi bỏng. Chúng tôi, dù muốn dù không, cũng phải nghe biết. Mỗi ngày chúng tôi vẫn cắp sách đến trường, nhưng tinh thần học coi mòi đã xuống dốc. Không khí lớp học cũng rời rã. Giáo sư vào lớp chỉ nói chuyện chính trị. Thầy Viêm chủ nhiệm lớp tôi đã có lệnh gọi đi tác chiến. Không biết thầy ấy ra đi có mang theo hình ảnh “Mơ hòa bình ” của đặc san lớp học không. Rồi nghe rằng có lệnh rút quân của Tổng thống. Nghe rằng Buôn Mê Thuột đã bị mất. Nghe rằng các tỉnh cao nguyên nối tiếp nhau, rơi vào tay Việt cộng. 


Đến nước đó thì các giáo sư hết mở lời, vào lớp chỉ ngồi thừ ra, im lặng, ngó mông lung ngoài cửa sổ, hút thuốc tự nhiên trước mặt học sinh, thỉnh thoảng lại ngáp dài. Học sinh uể oải theo. Thầy Châu giám học vào lớp cho biết toàn trường phải lo thi đệ nhị lục cá nguyệt sớm hơn một tháng. Tình hình căng quá, học và thi cũng phải rút ngắn lại. Thầy giám học làm xong nhiệm vụ thông báo mà vẫn không muốn rời khỏi lớp tôi. Trong lớp học có nhiều tu sĩ, nhiều chú tiểu ngây thơ như lớp tôi, có lẽ thầy muốn nấn ná tâm sự hay giải bày gì đó. Nhưng rồi thầy cũng phải bước ra. Nhìn chúng tôi lần cuối, nhún vai, rồi đi thẳng... Có cái gì đó sắp xảy ra rồi.

Ở viện, Thượng tọa giám viện và ban giám đốc thường cùng nghe đài VOA, BBC và đài phát thanh Sài Gòn vào mỗi sáng sớm và chiều tối. Báo chí đến Hội An thường chậm trễ và hiếm. Chỉ có ra-đi -ô là có thể mang lại tin tức nhanh chóng nhất cho Phật học viện chúng tôi mà thôi. Mỗi ngày tin tức càng nóng bỏng, sôi sục hơn. Các thầy ngồi nghe không biết đã nghe được gì, chỉ thấy thầy thì lắc đầu, thầy thì thở dài. Không khí tu học ở viện cũng bị ảnh hưởng tin tức thời sự không ít. Thượng tọa giám viện có vẻ buồn, thường trầm ngâm, giảng không hứng thú nữa. Các giờ học khác đều được cho nghỉ sớm. Có giờ được nghỉ hẳn.

Nhưng chưa có lệnh nghỉ thì học tăng chúng tôi như thường lệ, vẫn cứ xếp hàng dọc xuống trường Bồ Đề mỗi chiều (năm ngoái là buổi sáng, năm nay đổi lại). Con đường từ viện ra đến đường nhựa gần hai cây số đường đất, vẫn êm đềm lặng lẽ chạy vòng qua những rặng tre và đồng ruộng xanh ngát dưới cơn nắng cuối xuân. Có những con chim nhảy nhót trên bụi dâm bụt nhà ai. Dăm con cò trắng chậm rãi bước trên khoảng ruộng ngập nước. Bầu trời không mây xanh ngắt một màu. Chúng tôi bước đi một đoàn người, mà nghe không khí tịch mịch, im vắng kỳ lạ. Nhưng vừa đến khoảng đầu đường, chỗ quán bánh mì bà Đạo, chúng tôi bỗng nghe tiếng ồn ào huyên náo dễ sợ như vỡ ra ở phía trước.

Chúng tôi tiếp tục bước đến chỗ giáp với đường nhựa thì không thể bước qua đường được nữa. Đoàn tăng sinh tự động tan hàng một cách bỡ ngỡ, bàng hoàng vì cảnh tượng xảy ra trước mắt: một dòng nườm nượp xe cộ và người.

Xe cộ ùn ùn chạy qua, còi xe bấm inh ỏi, tiếng người la hét, gào thét vang rần. Nhiều người tay ẵm tay dắt mấy đứa con, vừa chạy vừa khóc. Xe lớn, xe nhỏ, xe gắn máy, xe đạp, xích lô, xe bò... và cả những người chạy bộ, đều rần rần hướng về phía Đà Nẵng. Những khuôn mặt cuống quít chạy qua đều hớt hơ hớt hãi, xanh lét xanh lè, trông thật thảm hại. Tưởng chừng chưa có niềm khiếp sợ nào to lớn hơn. 


Chú Tường dạn dĩ chận người quen lại hỏi thăm chuyện gì mà mọi người bỏ chạy hoảng loạn như vậy. Có người chỉ kịp lắc đầu rồi tiếp tục chạy, có người chẳng nói một tiếng. Cuối cùng mới có người trả lời gọn một câu: “Việt cộng đánh chiếm Quảng Ngãi hồi trưa nay.” Té ra là vậy. Tin đồn lan đi rất nhanh ở thị xã Hội An từ những đồng bào ở Quảng Ngãi chạy trốn Việt cộng theo ngả biển vào cửa Đại (cửa biển của Hội An) . Chẳng biết đài phát thanh đã thông báo tin ấy chưa mà đồng bào Hội An đã tuôn chạy như vầy rồi.

Nhiều chú nghe chuyện đã muốn quay về nhưng chú chúng trưởng bảo cứ đi thẳng xuống trường Bồ Đề coi có được phép nghỉ học chưa. Vậy là theo kỷ luật tập thể, chúng tôi cứ ngược dòng thác người đó mà đi. Đúng là một dòng thác người, cuồn cuộn chảy tới, không có khe hở, không có ngừng nghỉ. 


Ở bến xe Hội An -Đà Nẵng, cứ mỗi chiếc xe đò từ Đà Nẵng vừa cập bến, người ở trên chưa kịp bước xuống thì người ở dưới đã nhảy phóc lên, giành giật chỗ ngồi, la hét ỏm tỏi. Nhưng người từ Đà Nẵng về thì chỉ lác đác. Có lẽ họ có việc phải về Hội An để thu xếp chi đó. Có xe từ Đà Nẵng về chỉ là xe không. Hành khách đứng ngồi chật cứng ở bến xe. Xe chưa đậu hẳn là đã hết chỗ ngồi. Nhiều người nhảy đại lên mui, tự xếp hành lý và chỗ ngồi cho mình và gia đình. 

Học tăng chúng tôi hơn bốn chục người bây giờ nhìn lại chẳng thấy ai. Tản mác ở đâu hết rồi. Chúng tôi lạc nhau, chúng tôi tan loãng vào giữa dòng người. Quanh tôi chỉ còn Sáng và Hưng. Có lẽ vì chúng tôi bước chậm. Chúng tôi lần mò đi được một đoạn thì lại lạc mất chú Hưng. Chỉ còn tôi và Sáng. Giữa dòng người ùn ùn kéo chạy, chúng tôi bỗng thấy lạc lõng, bơ vơ. Người ta dắt díu nhau bỏ chạy, nào cha nào mẹ, nào anh chị em khắng khít đùm bọc nhau. 

Chúng tôi thì lững thững bước. Không người thân bên cạnh. Các chú khác đã quay về Phật học viện hoặc tụ lại với nhau ở một địa điểm nào rồi. Tôi nhìn Sáng, tự dưng thấy tội nghiệp và thương chú quá. Dù sao thì Sáng cũng nhỏ hơn tôi hai tuổi. Lần đầu tiên, tôi nắm lấy tay chú dắt đi như dắt một đứa em nhỏ. Tôi muốn an ủi và tỏ chút tình huynh đệ với chú trong lúc chạy loạn này. 

Tưởng là mình lớn hơn bảo bọc chú, trấn an chú, nào ngờ khi đi ngang một cây xăng nhỏ bỗng nghe nổ một tiếng “ầm,” lửa phực cháy, chú Sáng vụt khỏi tay tôi, bỏ chạy, lanh như con mèo. Tôi chỉ vừa quay đầu ngó vào cây xăng, rồi ngoảnh lại đã thấy chú đứng cách xa mình cả hai chục thước. Thấy không có gì xảy ra, chú mới dừng lại để chờ tôi. Người chủ cây xăng đã dập lửa kịp thời. Khi tôi bước theo kịp, chú Sáng nói một câu chữa thẹn: “Tưởng đâu có bom đạn gì nổ chứ!”

Chú ấy có vẻ xấu hổ khi bỏ tôi mà chạy vì một chuyện không đáng gì. Nhưng tôi chẳng chấp trách gì chuyện đó. Tôi chỉ tự hỏi, nếu cây xăng nổ tung, có phải là một người chậm chạp, khờ khạo và khư khư giữ lấy oai nghi tế hạnh như tôi sẽ không thể nào tránh khỏi tai nạn lớn chăng? Đây là do sự định tâm lâu ngày mà tôi bình tĩnh trước hoàn cảnh hay chỉ vì bản năng tự vệ và phản ứng cơ thể của tôi bị chậm lụt, trì trệ?

Đi thêm một khúc đường, chúng tôi gặp các chú đi trước quay ngược trở lại. Các chú kéo chúng tôi cùng về viện. Họ nói:

“Trường Bồ Đề cũng đã đóng cửa. Không có ai ở đó cả. Ông cai trường cũng kéo gia đình chạy đi rồi!”

Lối về ngang qua đồng ruộng và rặng tre xanh, nhưng lòng tôi đã nặng trĩu. Mấy con chim từ bờ dậu nhà ai hoảng hốt bay về phía mộ địa. Đàn cò trắng cũng đã bay đi đâu mất dạng phương nào rồi.

Vào bữa cơm chiều hôm ấy. Thượng tọa giám viện tuyên bố giải tán Phật học viện. Ai nấy nghẹn ngào nuốt cơm không vô nữa. Học tăng chúng tôi biết chuyện học, chuyện tu của mình rồi sẽ bị chướng ngại, gián đoạn, bao mộng ước lớn nhỏ đều tan vỡ, và chúng tôi chỉ còn chung sống với nhau một đêm cuối cùng này nữa thôi.


Xem thêm:
Đọc thêm..
“Tịnh-hạnh thành ra đạo-nghi, trong sạch trọn nên giới phẩm. Chí-khí cao như các vòm sao trên bầu trời, uy-nghiêm như gió như mây. Trong tâm ôm -ấp đức -tính con sư -tử, ngoài tướng biểu-hiện cái uy của tượng-vương. Cõi Người cõi Trời khen ngợi vâng theo và các bộ Long-thần đều khâm -phục.”

Mượn lời Tổ đức nêu cao đức tướng uy nghi của bậc xuất thế để nghĩ về một vị Trưởng lão Ni tài đức song toàn, bậc Long Tượng của Ni giới Việt Nam một thời vang bóng. Người đến và đi rực sáng như ngôi sao Bắc Đẩu trên bầu trời nhân thế và tinh khiết như loài sen tỏa ngát hương lành trong khu vườn đạo pháp mênh mông.


Phật pháp ứng dụng tinh khiết như hoa sen

“Tinh khiết như hoa sen 

Rạng ngời như Bắc đẩu 
Xin quay về nương náu 
Bậc thầy của Nhân Thiên”
 

Tôn dung khả kính, đạo hạnh uy nghiêm, mỗi lời nói mỗi bước đi khiến đại chúng cúi đầu quy phục, mỗi tâm nguyện mỗi việc làm đều thể hiện chân tướng bậc đại trượng phu uy dũng. Đó là hình ảnh cố Sư trưởng thượng Như hạ Thanh, Viện chủ Tổ đình Huê Lâm, vị lãnh đạo tối cao của Ni bộ Bắc Tông một thời; vị thầy đức hạnh, mẫu mực của Ni giới; là Giáo Thọ sư mà Ni chúng khắp nơi tâm nguyện nương về tu học; là vị Tuyên Luật sư mà bao thế hệ chư Ni mong nhờ ân đức của Người được lãnh thọ giới pháp.

Sư trưởng vốn xuất thân con nhà quan lại, gia phong nề nếp tại làng Tăng Nhơn Phú huyện Thủ Đức - nay là quận 9, TP. HCM. Ngoài hai mươi tuổi, Người quyết chí từ bỏ gia đình, tìm thầy xuất gia, tham cầu học đạo từ Sài Gòn xuôi xuống miền Tây, ra tận Huế rồi trở vào Bình Định dừng chân tại chùa Thập Tháp, cầu học những bộ kinh đại thừa thâm diệu với những vị Đại đức danh sư lúc bấy giờ. Sau đó Người tiếp tục ra Bắc cầu thọ Đại giới và tham học các bộ luật căn bản, luật Tứ phần Tỳ Kheo Ni và nghiên cứu Luật Tạng. Là người thông minh mẫn tiệp, Sư trưởng tiếp thu nghĩa lý kinh luật sâu xa rất tường tận nhanh chóng, chư Tôn đức giáo thọ đương thời khi trùng tuyên giáo điển cho Người đều hết lời khen ngợi tán thán.

Sau thời gian du phương cầu học viên mãn, năm 1942… Người trở về Nam bắt đầu công việc hoằng pháp lợi sanh. Trước tiên là mở lớp dạy Luật tại chùa Hội Sơn (Thủ Đức) trong 3 tháng, chư Ni từ Nha Trang, Mỹ Thọ cũng đến tham học. 


“Mùa an cư năm ấy, Sư cụ Diệu Tấn, chư Ni theo kịp trào lưu tiến hóa của xã hội về mọi phương diện qua các thời đại, trong khuôn khổ giới luật, kỷ cương theo lời Phật dạy.”
 
Năm 1945, Sư trưởng nhận lời ông bà Tri huyện Nguyễn Kỳ Sắc về trụ trì chùa Huê Lâm Quận 11 và bắt đầu công việc kiến thiết tu sửa biến nơi đây thành một chốn Già Lam tôn nghiêm thanh tịnh. Hai năm sau, Phật Học Viện Huê Lâm ra đời, chư Ni các nơi về theo học rất đông. Lớp học chúng đầu tiên ngày ấy sau này đều là bậc Ni trưởng đạo cao đức trọng, là bậc mô phạm để hàng Ni chúng và phật tử cùng nương về tu tập học đạo. Tiếp đến Người lập thêm những ngôi Tự Viện từ Sài Gòn đến khu Đại Tòng Lâm và thành phố Vũng Tàu để chúng Ni sau khi tốt nghiệp Học Viện về đây cùng làm phật sự, tiếp nối sứ mệnh hoằng pháp lợi sanh, báo ân Tổ đức.

Ngoài việc thành lập Ni trường nuôi dạy học chúng, Sư trưởng cũng mở ra các trường Trung Tiểu học Kiều Đàm miễn phí cho con em các gia đình nghèo đến học, lập Ký Nhi Viện, phòng thuốc nam cùng các cơ sở tự túc và từ thiện xã hội… Tất cả các cơ sở đó chỉ với mục đích giúp đỡ xoa dịu những mất mát đau thương thời chiến sự và nuôi dưỡng ý chí tự lập cho học chúng môn đồ. “Người nâng đỡ, dìu dắt chư Ni theo kịp trào lưu tiến hóa của xã hội về mọi phương diện qua các thời đại, trong khuôn khổ giới luật, kỷ cương theo lời Phật dạy.”


 Với tài năng lãnh đạo và chí khí hơn người, năm 1956, Giáo hội Tăng Già Nam Việt được thành lập, Sư trưởng bày tỏ ý nguyện thống nhất Ni bộ và được chư Tôn Đức trong Giáo hội ủng hộ. Thế là Người đích thân đi đến các chùa Ni từ miền Đông qua miền Tây Nam bộ để vận động chư Ni cùng đoàn kết thống nhất và nâng đỡ khuyến khích những vị hữu tài thực đức, nhiệt tâm vì đạo cùng đứng ra lãnh đạo vì sự phát triển chung của Ni giới. 

Không bao lâu, Ban quản trị Ni bộ ra đời có nội quy riêng, tổ chức hành chánh riêng, trụ sở đặt tại chùa Huê Lâm. Được sự tín nhiệm và ủng hộ của Giáo hội và đại chúng, Người được suy tôn là Sư trưởng lãnh đạo Ni bộ Bắc Tông. Năm đó Sư trưởng mới 46 tuổi. “Bằng cả trí tuệ, tài năng và sự quyết tâm làm rạng rỡ Ni giới, Người đã tìm được một vị trí xứng đáng, vững chắc cho Ni chúng trong hàng ngũ Giáo hội Phật giáo Việt Nam”

Xây chùa lập Tự Viện, mở Ni trường thâu học chúng các nơi về tu tập khai thông trí tuệ. Sư trưởng còn là Giáo thọ sư, Giảng sư Ni nổi tiếng về tư tưởng Đại Thừa Liễu Nghĩa, là bậc Hạnh Giải kiêm ưu, hành trì Giới luật rất nghiêm mật. Người đem hết tinh hoa Đạo pháp tham học nghiên cứu bao năm truyền trao lại cho đại chúng. Không chỉ chư Ni trẻ mà các vị Lão Ni có danh tiếng trong sự nghiệp hoằng pháp từ miền Trung đến miền Nam đều có tham học và thọ giáo Sư trưởng.


Dù rất bận rộn với các công việc của Ni bộ, của Ni trường, việc trong việc ngoài, việc đạo việc đời… nhưng khi đêm xuống, trong thư phòng tĩnh lặng, cảnh vật xung quanh lắng đọng thanh tịnh cũng là lúc Sư trưởng bắt đầu công việc trước tác dịch thuật của một Học giả yêu thích văn chương thi phú. Cho đến ngày Người về Phật (26-01 năm Kỷ Mão/1999) chúng đệ tử tại Tổ đình đã sưu tầm những tác phẩm còn lưu lại của Người gồm 3 phần “Trước tác biên soạn, dịch thuật và thi phẩm” khoảng trên dưới 30 đầu sách, đa phần là bản đánh máy, được Người trước tác và phiên dịch ròng rã trong 60 năm.

Sơ lược về hành trạng của Sư trưởng, chúng ta hiểu được đôi nét khái quát về một bậc trưởng lão Ni có chí khí tài năng vượt bực. Với tài năng chí khí ấy, Người tạo dựng sự nghiệp hoằng pháp vì lợi ích chúng sanh nhưng trên hết vì sự phát triển của Ni giới. Vượt qua mọi rào cản ràng buộc cùng những định kiến phân biệt của thời đại phong kiến, Người mạnh dạn cất lên tiếng nói đầy uy lực và nhanh chóng bắt tay vào công cuộc xây dựng Ni giới trở thành một tập thể đoàn kết, một tổ chức hợp nhất có quy tắc chuẩn mực riêng trong ngôi nhà chung của Đạo pháp.

Gần hai thập niên… hình bóng tôn dung bậc đại Ni trưởng Lão đã không còn hiện hữu nhưng hạnh nguyện lợi tha, công đức tu tập một đời của Người vẫn ghi đậm dấu ấn qua mỗi hành trình dấn thân của Ni giới ngày nay. Là bậc lãnh đạo tối cao trong Ni bộ, có tầm ảnh hưởng sâu rộng với mọi giới mọi miền, nhưng trong nếp sống hằng ngày, Người vẫn giữ sự khiêm cung bình dị và rất nghiêm túc hành trì giới luật trong mọi lúc mọi nơi. Chính sự nghiêm trì giữ giới mà phong thái của Người luôn toát lên vẻ uy vũ mà đức độ, nghiêm khắc mà lại bao dung hòa nhã. Và cũng chính sự nghiêm trì giới luật mà trải qua các kỳ Đại giới đàn từ tổ chức tại Sài Gòn và các tỉnh thành từ năm 1946 đến 1989, Sư trưởng luôn được chư Tôn đức, Hội đồng Ni bộ cung thỉnh Người làm Hòa thượng Đàn đầu truyền trao giới pháp cho giới tử Ni.

Giới luật tạo nên đạo phong cốt cách, là lẽ sống thanh cao, là uy lực tối thượng của người xuất gia đầu tròn áo vuông sống đời tịnh hạnh. Là người lãnh đạo Ni bộ nên Sư trưởng rất quan tâm đến việc oai nghi tế hạnh của đại chúng. Từng cử chỉ lời nói đi đứng nằm ngồi của Người luôn thể hiện khuôn vàng thước ngọc để Ni chúng noi theo. Chư Ni trẻ ngày ấy nghe danh Sư trưởng đều rất e ngại lo sợ khi được thầy tổ gởi về Huê Lâm tu học. Thế nhưng khi được gần gũi kề cận bên Người, ai cũng nhìn thấy sự nghiêm khắc ấy toát lên cả tấm lòng từ ái khoan dung độ lượng. Người luôn quan tâm đến mọi người, nhất là người già bệnh tật, những người kém may mắn trong xã hội. Khi tiếp cận với bất cứ ai, Người đều đối xử bình đẳng, không phân biệt nghèo hèn hay giàu sang địa vị. Còn với đại chúng… Người đều xem như đệ tử dạy bảo tận tình khuyến tấn tu học, không phân biệt vùng miền, là đệ tử của ai.

Trải qua bao cuộc thăng trầm biến đổi… bến sông xưa dù đã thay dòng nhưng mạch nguồn vẫn tuôn chảy qua muôn ngõ ngách của cuộc thế. Trên nền móng cũ vững vàng, Phân ban Đặc trách Ni giới Việt Nam được thành lập, một lớp Ni trẻ có tài năng, có học hạnh đang từng bước mở ra một chân trời mới để Ni giới Việt Nam phát triển và hòa nhập vào cộng đồng thế giới. Và rồi đây một lớp Hoằng Luật Ni nội trú đầu tiên cũng sẽ được khai giảng trong niềm vui và kỳ vọng của bao người.

Tất cả những thành quả mà Ni giới Việt Nam có được ngày nay đều thừa hưởng từ kho tàng trí huệ, từ năng lực xuất trần của tiền nhân để lại. Dấu ấn thời gian càng tô đậm thêm khí chất của bực Ni lưu và những người con gái Đức Như Lai dù đến dù đi vẫn lan tỏa cho đời mùi hương sen diệu mầu thanh khiết.


Xem thêm:

Tinh khiết như hoa sen

“Tịnh-hạnh thành ra đạo-nghi, trong sạch trọn nên giới phẩm. Chí-khí cao như các vòm sao trên bầu trời, uy-nghiêm như gió như mây. Trong tâm ôm -ấp đức -tính con sư -tử, ngoài tướng biểu-hiện cái uy của tượng-vương. Cõi Người cõi Trời khen ngợi vâng theo và các bộ Long-thần đều khâm -phục.”

Mượn lời Tổ đức nêu cao đức tướng uy nghi của bậc xuất thế để nghĩ về một vị Trưởng lão Ni tài đức song toàn, bậc Long Tượng của Ni giới Việt Nam một thời vang bóng. Người đến và đi rực sáng như ngôi sao Bắc Đẩu trên bầu trời nhân thế và tinh khiết như loài sen tỏa ngát hương lành trong khu vườn đạo pháp mênh mông.


Phật pháp ứng dụng tinh khiết như hoa sen

“Tinh khiết như hoa sen 

Rạng ngời như Bắc đẩu 
Xin quay về nương náu 
Bậc thầy của Nhân Thiên”
 

Tôn dung khả kính, đạo hạnh uy nghiêm, mỗi lời nói mỗi bước đi khiến đại chúng cúi đầu quy phục, mỗi tâm nguyện mỗi việc làm đều thể hiện chân tướng bậc đại trượng phu uy dũng. Đó là hình ảnh cố Sư trưởng thượng Như hạ Thanh, Viện chủ Tổ đình Huê Lâm, vị lãnh đạo tối cao của Ni bộ Bắc Tông một thời; vị thầy đức hạnh, mẫu mực của Ni giới; là Giáo Thọ sư mà Ni chúng khắp nơi tâm nguyện nương về tu học; là vị Tuyên Luật sư mà bao thế hệ chư Ni mong nhờ ân đức của Người được lãnh thọ giới pháp.

Sư trưởng vốn xuất thân con nhà quan lại, gia phong nề nếp tại làng Tăng Nhơn Phú huyện Thủ Đức - nay là quận 9, TP. HCM. Ngoài hai mươi tuổi, Người quyết chí từ bỏ gia đình, tìm thầy xuất gia, tham cầu học đạo từ Sài Gòn xuôi xuống miền Tây, ra tận Huế rồi trở vào Bình Định dừng chân tại chùa Thập Tháp, cầu học những bộ kinh đại thừa thâm diệu với những vị Đại đức danh sư lúc bấy giờ. Sau đó Người tiếp tục ra Bắc cầu thọ Đại giới và tham học các bộ luật căn bản, luật Tứ phần Tỳ Kheo Ni và nghiên cứu Luật Tạng. Là người thông minh mẫn tiệp, Sư trưởng tiếp thu nghĩa lý kinh luật sâu xa rất tường tận nhanh chóng, chư Tôn đức giáo thọ đương thời khi trùng tuyên giáo điển cho Người đều hết lời khen ngợi tán thán.

Sau thời gian du phương cầu học viên mãn, năm 1942… Người trở về Nam bắt đầu công việc hoằng pháp lợi sanh. Trước tiên là mở lớp dạy Luật tại chùa Hội Sơn (Thủ Đức) trong 3 tháng, chư Ni từ Nha Trang, Mỹ Thọ cũng đến tham học. 


“Mùa an cư năm ấy, Sư cụ Diệu Tấn, chư Ni theo kịp trào lưu tiến hóa của xã hội về mọi phương diện qua các thời đại, trong khuôn khổ giới luật, kỷ cương theo lời Phật dạy.”
 
Năm 1945, Sư trưởng nhận lời ông bà Tri huyện Nguyễn Kỳ Sắc về trụ trì chùa Huê Lâm Quận 11 và bắt đầu công việc kiến thiết tu sửa biến nơi đây thành một chốn Già Lam tôn nghiêm thanh tịnh. Hai năm sau, Phật Học Viện Huê Lâm ra đời, chư Ni các nơi về theo học rất đông. Lớp học chúng đầu tiên ngày ấy sau này đều là bậc Ni trưởng đạo cao đức trọng, là bậc mô phạm để hàng Ni chúng và phật tử cùng nương về tu tập học đạo. Tiếp đến Người lập thêm những ngôi Tự Viện từ Sài Gòn đến khu Đại Tòng Lâm và thành phố Vũng Tàu để chúng Ni sau khi tốt nghiệp Học Viện về đây cùng làm phật sự, tiếp nối sứ mệnh hoằng pháp lợi sanh, báo ân Tổ đức.

Ngoài việc thành lập Ni trường nuôi dạy học chúng, Sư trưởng cũng mở ra các trường Trung Tiểu học Kiều Đàm miễn phí cho con em các gia đình nghèo đến học, lập Ký Nhi Viện, phòng thuốc nam cùng các cơ sở tự túc và từ thiện xã hội… Tất cả các cơ sở đó chỉ với mục đích giúp đỡ xoa dịu những mất mát đau thương thời chiến sự và nuôi dưỡng ý chí tự lập cho học chúng môn đồ. “Người nâng đỡ, dìu dắt chư Ni theo kịp trào lưu tiến hóa của xã hội về mọi phương diện qua các thời đại, trong khuôn khổ giới luật, kỷ cương theo lời Phật dạy.”


 Với tài năng lãnh đạo và chí khí hơn người, năm 1956, Giáo hội Tăng Già Nam Việt được thành lập, Sư trưởng bày tỏ ý nguyện thống nhất Ni bộ và được chư Tôn Đức trong Giáo hội ủng hộ. Thế là Người đích thân đi đến các chùa Ni từ miền Đông qua miền Tây Nam bộ để vận động chư Ni cùng đoàn kết thống nhất và nâng đỡ khuyến khích những vị hữu tài thực đức, nhiệt tâm vì đạo cùng đứng ra lãnh đạo vì sự phát triển chung của Ni giới. 

Không bao lâu, Ban quản trị Ni bộ ra đời có nội quy riêng, tổ chức hành chánh riêng, trụ sở đặt tại chùa Huê Lâm. Được sự tín nhiệm và ủng hộ của Giáo hội và đại chúng, Người được suy tôn là Sư trưởng lãnh đạo Ni bộ Bắc Tông. Năm đó Sư trưởng mới 46 tuổi. “Bằng cả trí tuệ, tài năng và sự quyết tâm làm rạng rỡ Ni giới, Người đã tìm được một vị trí xứng đáng, vững chắc cho Ni chúng trong hàng ngũ Giáo hội Phật giáo Việt Nam”

Xây chùa lập Tự Viện, mở Ni trường thâu học chúng các nơi về tu tập khai thông trí tuệ. Sư trưởng còn là Giáo thọ sư, Giảng sư Ni nổi tiếng về tư tưởng Đại Thừa Liễu Nghĩa, là bậc Hạnh Giải kiêm ưu, hành trì Giới luật rất nghiêm mật. Người đem hết tinh hoa Đạo pháp tham học nghiên cứu bao năm truyền trao lại cho đại chúng. Không chỉ chư Ni trẻ mà các vị Lão Ni có danh tiếng trong sự nghiệp hoằng pháp từ miền Trung đến miền Nam đều có tham học và thọ giáo Sư trưởng.


Dù rất bận rộn với các công việc của Ni bộ, của Ni trường, việc trong việc ngoài, việc đạo việc đời… nhưng khi đêm xuống, trong thư phòng tĩnh lặng, cảnh vật xung quanh lắng đọng thanh tịnh cũng là lúc Sư trưởng bắt đầu công việc trước tác dịch thuật của một Học giả yêu thích văn chương thi phú. Cho đến ngày Người về Phật (26-01 năm Kỷ Mão/1999) chúng đệ tử tại Tổ đình đã sưu tầm những tác phẩm còn lưu lại của Người gồm 3 phần “Trước tác biên soạn, dịch thuật và thi phẩm” khoảng trên dưới 30 đầu sách, đa phần là bản đánh máy, được Người trước tác và phiên dịch ròng rã trong 60 năm.

Sơ lược về hành trạng của Sư trưởng, chúng ta hiểu được đôi nét khái quát về một bậc trưởng lão Ni có chí khí tài năng vượt bực. Với tài năng chí khí ấy, Người tạo dựng sự nghiệp hoằng pháp vì lợi ích chúng sanh nhưng trên hết vì sự phát triển của Ni giới. Vượt qua mọi rào cản ràng buộc cùng những định kiến phân biệt của thời đại phong kiến, Người mạnh dạn cất lên tiếng nói đầy uy lực và nhanh chóng bắt tay vào công cuộc xây dựng Ni giới trở thành một tập thể đoàn kết, một tổ chức hợp nhất có quy tắc chuẩn mực riêng trong ngôi nhà chung của Đạo pháp.

Gần hai thập niên… hình bóng tôn dung bậc đại Ni trưởng Lão đã không còn hiện hữu nhưng hạnh nguyện lợi tha, công đức tu tập một đời của Người vẫn ghi đậm dấu ấn qua mỗi hành trình dấn thân của Ni giới ngày nay. Là bậc lãnh đạo tối cao trong Ni bộ, có tầm ảnh hưởng sâu rộng với mọi giới mọi miền, nhưng trong nếp sống hằng ngày, Người vẫn giữ sự khiêm cung bình dị và rất nghiêm túc hành trì giới luật trong mọi lúc mọi nơi. Chính sự nghiêm trì giữ giới mà phong thái của Người luôn toát lên vẻ uy vũ mà đức độ, nghiêm khắc mà lại bao dung hòa nhã. Và cũng chính sự nghiêm trì giới luật mà trải qua các kỳ Đại giới đàn từ tổ chức tại Sài Gòn và các tỉnh thành từ năm 1946 đến 1989, Sư trưởng luôn được chư Tôn đức, Hội đồng Ni bộ cung thỉnh Người làm Hòa thượng Đàn đầu truyền trao giới pháp cho giới tử Ni.

Giới luật tạo nên đạo phong cốt cách, là lẽ sống thanh cao, là uy lực tối thượng của người xuất gia đầu tròn áo vuông sống đời tịnh hạnh. Là người lãnh đạo Ni bộ nên Sư trưởng rất quan tâm đến việc oai nghi tế hạnh của đại chúng. Từng cử chỉ lời nói đi đứng nằm ngồi của Người luôn thể hiện khuôn vàng thước ngọc để Ni chúng noi theo. Chư Ni trẻ ngày ấy nghe danh Sư trưởng đều rất e ngại lo sợ khi được thầy tổ gởi về Huê Lâm tu học. Thế nhưng khi được gần gũi kề cận bên Người, ai cũng nhìn thấy sự nghiêm khắc ấy toát lên cả tấm lòng từ ái khoan dung độ lượng. Người luôn quan tâm đến mọi người, nhất là người già bệnh tật, những người kém may mắn trong xã hội. Khi tiếp cận với bất cứ ai, Người đều đối xử bình đẳng, không phân biệt nghèo hèn hay giàu sang địa vị. Còn với đại chúng… Người đều xem như đệ tử dạy bảo tận tình khuyến tấn tu học, không phân biệt vùng miền, là đệ tử của ai.

Trải qua bao cuộc thăng trầm biến đổi… bến sông xưa dù đã thay dòng nhưng mạch nguồn vẫn tuôn chảy qua muôn ngõ ngách của cuộc thế. Trên nền móng cũ vững vàng, Phân ban Đặc trách Ni giới Việt Nam được thành lập, một lớp Ni trẻ có tài năng, có học hạnh đang từng bước mở ra một chân trời mới để Ni giới Việt Nam phát triển và hòa nhập vào cộng đồng thế giới. Và rồi đây một lớp Hoằng Luật Ni nội trú đầu tiên cũng sẽ được khai giảng trong niềm vui và kỳ vọng của bao người.

Tất cả những thành quả mà Ni giới Việt Nam có được ngày nay đều thừa hưởng từ kho tàng trí huệ, từ năng lực xuất trần của tiền nhân để lại. Dấu ấn thời gian càng tô đậm thêm khí chất của bực Ni lưu và những người con gái Đức Như Lai dù đến dù đi vẫn lan tỏa cho đời mùi hương sen diệu mầu thanh khiết.


Xem thêm:
Đọc thêm..

Phật pháp ứng dụng giấc mơ em nhỏ việt nam

Em đi học, để đến trường 
Em phải bơi qua sông
Tôi nhai cơm như muối xát trong lòng

Em đến trường
Áo quần sũng nước dâng mùa lũ
Gói tập vở trong bao nhựa để trên đầu, 

Giữ cho khô những con chữ
Em bơi qua mạng sống em, 
Để được học thêm một chữ
Rồi em sẽ bơi một đời nước ngược 
Để học thêm bao nhiêu nữa nỗi đau?

Dấu hỏi cong oằn lưng trời 

Dấu hỏi mắc xích kéo nhau
Dấu hỏi ngưng một chấm đen to, 
nơi tiền rừng bạc bể
Chảy vào những túi không đáy

Để có thêm những con gà đẻ trứng vàng 
Để thả rơi một đầu khốn khó xuống vực sâu 
Để với lên những bàn tay nhỏ
Dấu hỏi theo em cong giòng nước lũ

Tôi đi trên đường mùa xuân hoa cỏ 

Trên đường mùa hè nắng đổ
Trên đường mùa thu hiu gió
Trên bốn mùa giàu có những bình yên 

Nghe vỡ bờ
Con nước bên em tràn ngộp thở 
Trời trói vo
Đất quàng rọ

Lặng quá, tiếng những bàn tay với lên không… 
Nặng quá, một dấu hỏi đẫm nước.

Xem thêm:

Giấc mơ em nhỏ Việt Nam


Phật pháp ứng dụng giấc mơ em nhỏ việt nam

Em đi học, để đến trường 
Em phải bơi qua sông
Tôi nhai cơm như muối xát trong lòng

Em đến trường
Áo quần sũng nước dâng mùa lũ
Gói tập vở trong bao nhựa để trên đầu, 

Giữ cho khô những con chữ
Em bơi qua mạng sống em, 
Để được học thêm một chữ
Rồi em sẽ bơi một đời nước ngược 
Để học thêm bao nhiêu nữa nỗi đau?

Dấu hỏi cong oằn lưng trời 

Dấu hỏi mắc xích kéo nhau
Dấu hỏi ngưng một chấm đen to, 
nơi tiền rừng bạc bể
Chảy vào những túi không đáy

Để có thêm những con gà đẻ trứng vàng 
Để thả rơi một đầu khốn khó xuống vực sâu 
Để với lên những bàn tay nhỏ
Dấu hỏi theo em cong giòng nước lũ

Tôi đi trên đường mùa xuân hoa cỏ 

Trên đường mùa hè nắng đổ
Trên đường mùa thu hiu gió
Trên bốn mùa giàu có những bình yên 

Nghe vỡ bờ
Con nước bên em tràn ngộp thở 
Trời trói vo
Đất quàng rọ

Lặng quá, tiếng những bàn tay với lên không… 
Nặng quá, một dấu hỏi đẫm nước.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê. Bởi vì, theo truyền thuyết, và hình như có nhiều sách ghi lại, rằng Ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Quốc để truyền bá pháp môn Thiền Tông, nhưng thấy chưa ai có thể hiểu được, nên lên một ngôi chùa trên núi để ngồi thiền, ngó vách đá trong chín năm; sách ghi rằng, có lúc Ngài ngủ gục, liền cắt mí mắt, rơi xuống thành cây trà. Sau này, các sư uống trà để tỉnh ngủ.

Truyền thuyết vậy thôi. Bởi vì, một nhà sư Ấn Độ sang Trung Hoa để khai sáng Thiền Tông, nói những lời trí tuệ bát ngát, sao lại có chuyện ngủ gục trong khi ngồi thiền. Phải chăng, Bồ Đề Đạt Ma muốn bày trò cho các nhà sư tập lấy quyết tâm chống buồn ngủ. Và rồi, cắt mi mắt cho mọc thành cây trà cũng là một màn biểu diễn thần thông… Thực tế, trà không dính gì với Thiền; nhưng có thể nhìn cách khác, Thiền sẽ dính tới tất cả, vì Thiền là sống trọn cái toàn thể, toàn dụng, là đi đứng nằm ngồi trong tỉnh thức.

Thời này là thời cà phê. Hồi chiều Chủ Nhật, trong khi chờ xem lễ trao Giải Oscars trên đài ABC, tôi bấm trúng một làn sóng tiếng Việt, lúc đó thấy đoạn cuối một bản tin ngắn về cà phê Thiền ở Hà Nội. Một tiệm đúng là cà phê Thiền, vì nhìn lên tường thấy có hình Đức Phật, trên bàn có vườn Thiền bằng cát thu nhỏ kiểu Nhật Bản. Tiệm thứ nhì hình như không thuần túy, vì ngó lên tường thấy có tranh Bát Tiên của Trung Hoa; có thể là liên hệ tới Lão giáo hay võ phái, nhưng không biết chắc, vì hình chiếu thoáng qua có mấy giây… Hiển nhiên, đây là một bước tiến lớn của xã hội. Trước giờ, chỉ nghe chuyện về các quán cà phê Thiền ở Sài Gòn, ở Đà Lạt… Khi thủ đô Hà Nội chuyển mình, cả nước rồi sẽ thay đổi.

Tôi nhớ về một Sài Gòn với cà phê: nhiều thập niên trước, làm gì có chuyện quán cà phê Thiền.

Cũng để ngưng một chút: lúc đó, tôi chợt thắc mắc về khả năng nhớ của mình. Bất chợt nhớ, hẳn là công năng của tiềm thức hay vô thức gì đó, không phải tự ý chủ động nhớ -- tiếng Anh gọi là “the latent tendencies.” Nhưng rồi tôi tự nhủ, phải quay lại xem đài ABC để khuya nay còn viết bản tin về Giải Oscars. Và rồi thắc mắc, nãy giờ, mình vừa dao động giữa vô thức và tỉnh giác nhiều lần, trên nguyên tắc là dao động giữa rất nhiều niệm, vì luận Abhi-dhamma nói rằng mỗi niệm sinh và diệt là gồm 7 niệm vi tế (hay 16 niệm vi tế? Chỗ này không nhớ chính xác). Tự nghĩ, như thế, vô thức có một chiều sâu nối kết ký ức mạnh như thế, mới biết rằng tu không dễ, vì vô thức thường khởi lên bất ngờ những ký ức tầm bậy, hay hình ảnh đau đớn (cũng là lý do, nhiều chiến binh Mỹ trở về từ Iraq và bị hình ảnh bom đạn chết chóc ám ảnh tới bệnh).

Để nói tiếp chuyện cà phê. Thỉnh thoảng, hồi nhỏ, tôi được ba dẫn ra tiệm cà phê ở góc Lê Văn Duyệt/Tô Hiến Thành ngồi uống cà phê, ăn sáng. Những lúc đó là rạng sáng, khoảng 5 hay 6 giờ sáng, và tôi sửa soạn đạp xe đạp lên sân Hoa Lư tập thể dục. Đó là hồi trung học đệ nhất cấp, cả lớp mỗi tuần phải tới sân Hoa Lư tập thể dục, thường là đá banh. Tôi nhớ ly cà phê thiệt ra không có vị gì như bây giờ, vì đó là cà phê vợt của tiệm hủ tiếu. Có vẻ như có mùi khen khét, theo tôi nhớ. Giờ đó lúc nào cũng có mấy bác xích lô ngồi gần, đổ ly cà phê ra dĩa cho nguội.

Cà phê là một phần đời của Sài Gòn, vì nhìn đâu cũng thấy cà phê. Từ quán cóc, tới quán nhạc; từ cà phê vợt, tới cà phê phin. Nhưng thời đó, làm gì có cà phê Thiền. Do vậy, bây giờ phải chăng đã chú trọng nhiều hơn, hay là cần hơn, một pháp an tâm?

Thực sự không rõ. Có lẽ, cần có một thống kê xã hội.
Cà phê với tôi đôi khi gắn liền với văn chương, chớ không gắn liền với Thiền. Thời trung học, khi học thi, là cần tới cà phê mới tỉnh. Có lẽ, lúc đó, uống kiểu đó, không tinh tế như các bạn trẻ bây giờ ngồi uống ở các quán cà phê Thiền. Vì uống kiểu như tôi thời nhỏ, làm gì có chuyện, thử ghi bằng thơ:

nâng lên trong tỉnh giác 

tay cầm tách nhẹ nhàng, 
khói bay như cánh hạc 
len vào kinh từng trang.

Rất nhiều nhà văn có kỷ niệm với cà phê. Có khi xao động, có khi trầm tư, có khi thực tiễn.

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác trong truyện ngắn “Dốc Nhân Sinh” khởi đầu truyện bằng đoạn sau đây:

Phật pháp ứng dụng cà phê và thiền

“Sau khi có lệnh cấm ngặt các quán cà phê không được mở nhạc tiền chiến, nhạc disco, và một số chủ quán cà phê ở đường Trần Quang Khải bị đưa ra tòa, khu vực này chết lặng như một vùng mộ. Người qua đường nghe trở lại tiếng lách cách của những trái me chín khô va chạm vào nhau, và lại bồi hồi xúc động ngắm những giọt lá me

vàng bay nghiêng, bay nghiêng. Chị phu quét đường ngập ngừng không nỡ đưa nhanh nhát chổi. Lâu lâu gió trái chứng đổi hướng, lá me chao liệng rồi bay tạt vào quán vắng.”

Cà phê, cà phê... cũng có lúc xao động như thế.

Hay như nhà văn Võ Phiến trong tùy bút “Giọt Cà Phê” đã ghi nhận hình ảnh:
“...Hai chân len lén rút ra khỏi đôi giày da chật chội, đạp trên chiếc ghế con bỏ trống bên cạnh, hay gác lên bờ tường thấp, ngã người trên lưng ghế, ngước nhìn lên trời (bầu trời vắng vẻ cao vời vợi), từ từ đảo mắt quan sát xung quanh một cách biếng nhác (trong khoảng sân của quán cà-phê lộ thiên từng nhóm từng nhóm tự khép lại như những ốc đảo riêng biệt), trên bàn phin cốc đã sẵn, bình thủy nước sôi đã sẵn, ta ngồi chờ... Bấy giờ, cứ một giọt cà -phê rụng xuống là trăm nghìn câu chuyện cũ dâng lên trong ký ức, lan man bất tuyệt...

Cà-phê rụng xuống không vội vã, ồ không! Một giọt cà -phê biết tự trọng không bao giờ vội vã. Dù cho giữa khung cảnh sinh hoạt hấp tấp tơi bời của đô thị văn minh ngày nay, giọt cà-phê chân chính vẫn bình tĩnh thong thả tụ hình, đắn đo, đủng đỉnh lắc lư, suy tư, chán chê rồi bấy giờ mới chịu buông mình xuống tách. Về cái phong thái đĩnh đạc cẩn trọng, dám chắc những giọt cà-phê của thế hệ hôm nay không có gì để hổ thẹn với những giọt cà-phê tiền bối năm ba thế kỷ trước…”


Có một thói quen từ xa xưa, hễ tôi ngồi quán cà phê là tay phải cầm sách. Dĩ nhiên, xã hội bắt mình phải học, phải đọc liên tục. Bây giờ cũng quen rồi.

Tôi nghĩ rằng các quán cà phê Thiền ở Việt Nam nên để sẵn trên bàn những cuốn sách về Thiền -- đặc biệt là những cuốn sách viết rất cận nhân tình, thực dụng, có thể áp dụng tức khắc (và cả lâu dài).

Và phải chi, có một đại gia nào có lòng với Thiền, hãy mua các sách thiền cần thiết để tặng cho tất cả các tiệm cà phê Thiền tại Việt Nam.

Nếu hỏi tôi rằng, nên tặng sách nào cho các quán cà phê Thiền?
Nếu kể đầy đủ, hẳn là phải kể tên rất nhiều tác giả.

Nhưng nếu phải nói lên ý riêng (và ý riêng, không hẳn phù hợp với tất cả độc giả), tôi sẽ do dự. Ý tôi muốn nói rằng, đó là sách theo sở thích riêng. Thí dụ, Thiền để giữ sức khỏe, để an lạc, để trí tuệ minh mẫn, để tâm xa lìa hay để giảm bớt tham sân si...

Bây giờ, mời bạn đọc mấy đoạn văn này, trích từ một cuốn sách:

“Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức giảm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ thấy bớt cần thiết phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn như glucid, lipid, protid… vốn là nguồn tạo năng lượng! Ăn ít đi mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc, tinh thần sẽ sảng khoái. Các nghiên cứu gần đây cho thấy các sinh vật bị cho nhịn đói vừa phải thì sẽ sống lâu hơn và trẻ hơn. Do vậy mà các thiền giả không có nhiều nhu cầu về các chất dinh dưỡng được cung cấp bởi thức ăn! Ta thấy giới, định và tuệ gắn bó chặt chẽ với nhau như một tam giác cân, tác động hai chiều là vậy!

Danh y Tuệ Tĩnh, thế kỷ XIV ở nước ta đã đúc kết một lời khuyên: “Bế tinh- Dưỡng khí-Tồn thần / Thanh tâm- Quả dục- Thủ chân-Luyện hình” . Thử nhìn lại đời sống hiện nay ta thấy: tinh không bế, khí không dưỡng, thần không tồn, tâm náo loạn… bảo sao các hiện tượng tâm thần, tự tử, béo phì, tiểu đường, huyết áp… kể cả chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai… chẳng ngày một gia tăng?

Đời sống tiết độ, tri túc, kham nhẫn, chánh niệm, tỉnh giác.. phải chăng có thể góp phần giải quyết những vấn đề sức khỏe thời đại và bảo vệ môi trường sống của chúng ta hôm nay?

Đừng tìm đâu cho mất công. Hãy quay về nương tựa chính mình. Quả đúng như vậy. Bởi nói cho cùng, ai có thể “thở” giùm ai? Ai có thể “thiền” giùm ai?” (hết trích)


Vâng, đó là từ cuốn “Thiền Và Sức Khỏe” của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Sách này đã tái bản mấy lần, tức là, ích lợi vô cùng tận (xin ca ngợi hết lời, vì lòng mình không ngăn được).

Có một cuốn sách nữa, tôi ưa thích là cuốn “Cõi Phật Đâu Xa” cũng của Đỗ Hồng Ngọc.
Phải chi văn học Thiền gần gũi như thế, sẽ giúp cho xã hội bình an hơn, người người an lạc hơn, giảm đủ thứ bệnh...

Tôi không nhớ cà phê có liên hệ gì tới nhà văn họ Đỗ. Tôi chỉ ước mơ rằng, phải chi thời mới tập uống cà phê đã đọc được những sách này.
Lúc đó, tôi sẽ trầm lắng hơn, sẽ nhìn khói bay trên tách cà phê kỹ hơn, sẽ ngấm từng ngụm ít hơn và sẽ cảm nhận hương vị cà phê kỹ hơn.
Bây giờ, nếu có ai hỏi cà phê Việt Nam thế nào, tôi sẽ nói rằng không biết... vì thời xưa tôi uống không hề cảm nhận trong chánh niệm tỉnh giác, và có khi chỉ ngồi cãi nhau với bạn bè về những câu thơ nào bên trời Tây.

Và bây giờ, nơi phương xa, tôi nhớ cà phê quê nhà. Phải chi, lúc đó, mình vừa ngấm từng ngụm, vừa thở rất dịu dàng...


Xem thêm:

Cà phê và thiền

Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê. Bởi vì, theo truyền thuyết, và hình như có nhiều sách ghi lại, rằng Ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Quốc để truyền bá pháp môn Thiền Tông, nhưng thấy chưa ai có thể hiểu được, nên lên một ngôi chùa trên núi để ngồi thiền, ngó vách đá trong chín năm; sách ghi rằng, có lúc Ngài ngủ gục, liền cắt mí mắt, rơi xuống thành cây trà. Sau này, các sư uống trà để tỉnh ngủ.

Truyền thuyết vậy thôi. Bởi vì, một nhà sư Ấn Độ sang Trung Hoa để khai sáng Thiền Tông, nói những lời trí tuệ bát ngát, sao lại có chuyện ngủ gục trong khi ngồi thiền. Phải chăng, Bồ Đề Đạt Ma muốn bày trò cho các nhà sư tập lấy quyết tâm chống buồn ngủ. Và rồi, cắt mi mắt cho mọc thành cây trà cũng là một màn biểu diễn thần thông… Thực tế, trà không dính gì với Thiền; nhưng có thể nhìn cách khác, Thiền sẽ dính tới tất cả, vì Thiền là sống trọn cái toàn thể, toàn dụng, là đi đứng nằm ngồi trong tỉnh thức.

Thời này là thời cà phê. Hồi chiều Chủ Nhật, trong khi chờ xem lễ trao Giải Oscars trên đài ABC, tôi bấm trúng một làn sóng tiếng Việt, lúc đó thấy đoạn cuối một bản tin ngắn về cà phê Thiền ở Hà Nội. Một tiệm đúng là cà phê Thiền, vì nhìn lên tường thấy có hình Đức Phật, trên bàn có vườn Thiền bằng cát thu nhỏ kiểu Nhật Bản. Tiệm thứ nhì hình như không thuần túy, vì ngó lên tường thấy có tranh Bát Tiên của Trung Hoa; có thể là liên hệ tới Lão giáo hay võ phái, nhưng không biết chắc, vì hình chiếu thoáng qua có mấy giây… Hiển nhiên, đây là một bước tiến lớn của xã hội. Trước giờ, chỉ nghe chuyện về các quán cà phê Thiền ở Sài Gòn, ở Đà Lạt… Khi thủ đô Hà Nội chuyển mình, cả nước rồi sẽ thay đổi.

Tôi nhớ về một Sài Gòn với cà phê: nhiều thập niên trước, làm gì có chuyện quán cà phê Thiền.

Cũng để ngưng một chút: lúc đó, tôi chợt thắc mắc về khả năng nhớ của mình. Bất chợt nhớ, hẳn là công năng của tiềm thức hay vô thức gì đó, không phải tự ý chủ động nhớ -- tiếng Anh gọi là “the latent tendencies.” Nhưng rồi tôi tự nhủ, phải quay lại xem đài ABC để khuya nay còn viết bản tin về Giải Oscars. Và rồi thắc mắc, nãy giờ, mình vừa dao động giữa vô thức và tỉnh giác nhiều lần, trên nguyên tắc là dao động giữa rất nhiều niệm, vì luận Abhi-dhamma nói rằng mỗi niệm sinh và diệt là gồm 7 niệm vi tế (hay 16 niệm vi tế? Chỗ này không nhớ chính xác). Tự nghĩ, như thế, vô thức có một chiều sâu nối kết ký ức mạnh như thế, mới biết rằng tu không dễ, vì vô thức thường khởi lên bất ngờ những ký ức tầm bậy, hay hình ảnh đau đớn (cũng là lý do, nhiều chiến binh Mỹ trở về từ Iraq và bị hình ảnh bom đạn chết chóc ám ảnh tới bệnh).

Để nói tiếp chuyện cà phê. Thỉnh thoảng, hồi nhỏ, tôi được ba dẫn ra tiệm cà phê ở góc Lê Văn Duyệt/Tô Hiến Thành ngồi uống cà phê, ăn sáng. Những lúc đó là rạng sáng, khoảng 5 hay 6 giờ sáng, và tôi sửa soạn đạp xe đạp lên sân Hoa Lư tập thể dục. Đó là hồi trung học đệ nhất cấp, cả lớp mỗi tuần phải tới sân Hoa Lư tập thể dục, thường là đá banh. Tôi nhớ ly cà phê thiệt ra không có vị gì như bây giờ, vì đó là cà phê vợt của tiệm hủ tiếu. Có vẻ như có mùi khen khét, theo tôi nhớ. Giờ đó lúc nào cũng có mấy bác xích lô ngồi gần, đổ ly cà phê ra dĩa cho nguội.

Cà phê là một phần đời của Sài Gòn, vì nhìn đâu cũng thấy cà phê. Từ quán cóc, tới quán nhạc; từ cà phê vợt, tới cà phê phin. Nhưng thời đó, làm gì có cà phê Thiền. Do vậy, bây giờ phải chăng đã chú trọng nhiều hơn, hay là cần hơn, một pháp an tâm?

Thực sự không rõ. Có lẽ, cần có một thống kê xã hội.
Cà phê với tôi đôi khi gắn liền với văn chương, chớ không gắn liền với Thiền. Thời trung học, khi học thi, là cần tới cà phê mới tỉnh. Có lẽ, lúc đó, uống kiểu đó, không tinh tế như các bạn trẻ bây giờ ngồi uống ở các quán cà phê Thiền. Vì uống kiểu như tôi thời nhỏ, làm gì có chuyện, thử ghi bằng thơ:

nâng lên trong tỉnh giác 

tay cầm tách nhẹ nhàng, 
khói bay như cánh hạc 
len vào kinh từng trang.

Rất nhiều nhà văn có kỷ niệm với cà phê. Có khi xao động, có khi trầm tư, có khi thực tiễn.

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác trong truyện ngắn “Dốc Nhân Sinh” khởi đầu truyện bằng đoạn sau đây:

Phật pháp ứng dụng cà phê và thiền

“Sau khi có lệnh cấm ngặt các quán cà phê không được mở nhạc tiền chiến, nhạc disco, và một số chủ quán cà phê ở đường Trần Quang Khải bị đưa ra tòa, khu vực này chết lặng như một vùng mộ. Người qua đường nghe trở lại tiếng lách cách của những trái me chín khô va chạm vào nhau, và lại bồi hồi xúc động ngắm những giọt lá me

vàng bay nghiêng, bay nghiêng. Chị phu quét đường ngập ngừng không nỡ đưa nhanh nhát chổi. Lâu lâu gió trái chứng đổi hướng, lá me chao liệng rồi bay tạt vào quán vắng.”

Cà phê, cà phê... cũng có lúc xao động như thế.

Hay như nhà văn Võ Phiến trong tùy bút “Giọt Cà Phê” đã ghi nhận hình ảnh:
“...Hai chân len lén rút ra khỏi đôi giày da chật chội, đạp trên chiếc ghế con bỏ trống bên cạnh, hay gác lên bờ tường thấp, ngã người trên lưng ghế, ngước nhìn lên trời (bầu trời vắng vẻ cao vời vợi), từ từ đảo mắt quan sát xung quanh một cách biếng nhác (trong khoảng sân của quán cà-phê lộ thiên từng nhóm từng nhóm tự khép lại như những ốc đảo riêng biệt), trên bàn phin cốc đã sẵn, bình thủy nước sôi đã sẵn, ta ngồi chờ... Bấy giờ, cứ một giọt cà -phê rụng xuống là trăm nghìn câu chuyện cũ dâng lên trong ký ức, lan man bất tuyệt...

Cà-phê rụng xuống không vội vã, ồ không! Một giọt cà -phê biết tự trọng không bao giờ vội vã. Dù cho giữa khung cảnh sinh hoạt hấp tấp tơi bời của đô thị văn minh ngày nay, giọt cà-phê chân chính vẫn bình tĩnh thong thả tụ hình, đắn đo, đủng đỉnh lắc lư, suy tư, chán chê rồi bấy giờ mới chịu buông mình xuống tách. Về cái phong thái đĩnh đạc cẩn trọng, dám chắc những giọt cà-phê của thế hệ hôm nay không có gì để hổ thẹn với những giọt cà-phê tiền bối năm ba thế kỷ trước…”


Có một thói quen từ xa xưa, hễ tôi ngồi quán cà phê là tay phải cầm sách. Dĩ nhiên, xã hội bắt mình phải học, phải đọc liên tục. Bây giờ cũng quen rồi.

Tôi nghĩ rằng các quán cà phê Thiền ở Việt Nam nên để sẵn trên bàn những cuốn sách về Thiền -- đặc biệt là những cuốn sách viết rất cận nhân tình, thực dụng, có thể áp dụng tức khắc (và cả lâu dài).

Và phải chi, có một đại gia nào có lòng với Thiền, hãy mua các sách thiền cần thiết để tặng cho tất cả các tiệm cà phê Thiền tại Việt Nam.

Nếu hỏi tôi rằng, nên tặng sách nào cho các quán cà phê Thiền?
Nếu kể đầy đủ, hẳn là phải kể tên rất nhiều tác giả.

Nhưng nếu phải nói lên ý riêng (và ý riêng, không hẳn phù hợp với tất cả độc giả), tôi sẽ do dự. Ý tôi muốn nói rằng, đó là sách theo sở thích riêng. Thí dụ, Thiền để giữ sức khỏe, để an lạc, để trí tuệ minh mẫn, để tâm xa lìa hay để giảm bớt tham sân si...

Bây giờ, mời bạn đọc mấy đoạn văn này, trích từ một cuốn sách:

“Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức giảm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ thấy bớt cần thiết phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn như glucid, lipid, protid… vốn là nguồn tạo năng lượng! Ăn ít đi mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc, tinh thần sẽ sảng khoái. Các nghiên cứu gần đây cho thấy các sinh vật bị cho nhịn đói vừa phải thì sẽ sống lâu hơn và trẻ hơn. Do vậy mà các thiền giả không có nhiều nhu cầu về các chất dinh dưỡng được cung cấp bởi thức ăn! Ta thấy giới, định và tuệ gắn bó chặt chẽ với nhau như một tam giác cân, tác động hai chiều là vậy!

Danh y Tuệ Tĩnh, thế kỷ XIV ở nước ta đã đúc kết một lời khuyên: “Bế tinh- Dưỡng khí-Tồn thần / Thanh tâm- Quả dục- Thủ chân-Luyện hình” . Thử nhìn lại đời sống hiện nay ta thấy: tinh không bế, khí không dưỡng, thần không tồn, tâm náo loạn… bảo sao các hiện tượng tâm thần, tự tử, béo phì, tiểu đường, huyết áp… kể cả chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai… chẳng ngày một gia tăng?

Đời sống tiết độ, tri túc, kham nhẫn, chánh niệm, tỉnh giác.. phải chăng có thể góp phần giải quyết những vấn đề sức khỏe thời đại và bảo vệ môi trường sống của chúng ta hôm nay?

Đừng tìm đâu cho mất công. Hãy quay về nương tựa chính mình. Quả đúng như vậy. Bởi nói cho cùng, ai có thể “thở” giùm ai? Ai có thể “thiền” giùm ai?” (hết trích)


Vâng, đó là từ cuốn “Thiền Và Sức Khỏe” của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Sách này đã tái bản mấy lần, tức là, ích lợi vô cùng tận (xin ca ngợi hết lời, vì lòng mình không ngăn được).

Có một cuốn sách nữa, tôi ưa thích là cuốn “Cõi Phật Đâu Xa” cũng của Đỗ Hồng Ngọc.
Phải chi văn học Thiền gần gũi như thế, sẽ giúp cho xã hội bình an hơn, người người an lạc hơn, giảm đủ thứ bệnh...

Tôi không nhớ cà phê có liên hệ gì tới nhà văn họ Đỗ. Tôi chỉ ước mơ rằng, phải chi thời mới tập uống cà phê đã đọc được những sách này.
Lúc đó, tôi sẽ trầm lắng hơn, sẽ nhìn khói bay trên tách cà phê kỹ hơn, sẽ ngấm từng ngụm ít hơn và sẽ cảm nhận hương vị cà phê kỹ hơn.
Bây giờ, nếu có ai hỏi cà phê Việt Nam thế nào, tôi sẽ nói rằng không biết... vì thời xưa tôi uống không hề cảm nhận trong chánh niệm tỉnh giác, và có khi chỉ ngồi cãi nhau với bạn bè về những câu thơ nào bên trời Tây.

Và bây giờ, nơi phương xa, tôi nhớ cà phê quê nhà. Phải chi, lúc đó, mình vừa ngấm từng ngụm, vừa thở rất dịu dàng...


Xem thêm:
Đọc thêm..
 Vào thập niên tám mươi của thế kỷ trước, sau khi đất nước Việt Nam vừa mới thống nhất, do bối cảnh đặc thù của xã hội nên tình hình quản lý nhà nước về tôn giáo có nhiều điều khác biệt so với thời nay. Tôi còn nhớ rằng, có những tu sĩ Phật giáo, do không đầy đủ các giấy tờ liên quan đến nhân thân, nên không thể cư trú trong chính ngôi chùa mà mình đã xuất gia và đang yên lành tu học tại đó. 

Vô số hoàn cảnh thương tâm đã nảy sinh từ những vấn đề liên quan đến cư  trú này. Sư huynh tôi
là một trường hợp như vậy. Sau  lời  cáo  bạch  đầy ái ngại của thầy trụ trì ở một ngôi chùa nọ, sư    huynh tôi cũng như bao nhiêu vị tăng sĩ thiếu điều kiện về giấy tờ cư trú, đành phải vạ vật ở nhiều nơi. Có lúc ban ngày sinh hoạt tại chùa, nhưng ban đêm đành phải tá túc ở nhà dân. Một vài vị tăng sĩ trẻ không kham nỗi sự bí bách đành phải lựa chọn con đường trở về với thế tục. Sư huynh tôi khi ấy còn trẻ, nhưng luôn kiên định con đường tu dù phải làm khách “tạm trú thập phương Tăng.”

Nghe Phật tử thân quen bảo rằng, có một vị xuất gia đang lâm vào cảnh ngặt, vừa bị bệnh hen suyễn vừa không có chỗ nương thân. Lúc ấy, dù điều kiện sinh nhai còn bất tiện nhiều bề, nhưng ba me tôi đã phát tâm cung thỉnh sư huynh về tá túc tại nhà. Làm nghề nông, con thì đông, không gian sinh hoạt không đủ rộng, lại phải sắp sếp một gian phòng bé tí, để cho vị xuất gia có nơi sinh hoạt tạm thời, quả là nỗ lực từ ba me tôi.

Phật pháp ứng dụng sư huynh

Có những khi đồng áng vào mùa, cả nhà phải tất bật trên rẫy xa, nhưng phải phân công khi người này, lúc người nọ lo cơm nước cho thầy. Nghề nông tuy bận rộn nhưng ai cũng hoan hỷ với những câu chuyện thầy kể khi chiều về, và lòng đầy thanh thản khi nghe tiếng tụng kinh khàn đục của sư huynh trong  lúc trời còn mờ sương. Tôi còn nhớ sau một mùa bội thu, ba me đã thủ thỉ bàn nhau mua một xấp vải kate Nhật màu nâu để cúng dường chothầy khi ra Hạ.            

Cũng từ nhân  duyên đó, tôi hiểu thêm về những câu chuyện tiền thân Đức Phật, những gương nhân quả ba đời mà khi rảnh rỗi thầy kể cho cả nhà cùng nghe.

Mãi cho đến một hôm, thầy bất chợt hỏi tôi: “Con muốn đi tu không?” Tôi trả lời không một chút do dự: “Đi thì đi.” Thật sự ra, trước khi đón thầy về nhà, mỗi chủ nhật hàng tuần, tôi vẫn đi học giáo lý ở một ngôi chùa ở làng bên, những kiến thức lõm bõm từ những buổi học bên hiên chùa, cộng với những câu chuyện mà sư huynh đã kể cho cả nhà cùng nghe khi rỗi việc, đã từng bước làm nhu nhuyến tâm tôi.

Dường  như ngay tức khắc, sư huynh đã bàn với ba me nhằm giúp tôi thực hiện ý nguyện này. Tự nhận rằng, mình còn trẻ và duyên nghiệp còn long đong nên sư huynh không thể làm thầy thế phát. Sau khi trầm tính, lắng nghe và suy xét nhiều bề, sư huynh và cả ba me đã đưa tôi đến cầu thầy bổn sư của tôi làm thầy thế độ. Mặc dù tôi và sư huynhkhông nên nghĩa sư-đồ nhưng trong thâm tâm tôi luôn sùng kính và xem như một bậc ân sư.                        

Tôi được chính thức xuất gia và không lâu sau đó, sư huynh cũng từ giã ba me và phát nguyện trông   nom một ngôi chùa nghèo nằm heo hút giữa nông trại cao su ngút mắt. Và cũng từ đây, một phút lỡ làng trong một đêm trăng vắng, đã mở ra bước ngoặt chưa hề tính trước trong cuộc đời của sư huynh. Sự việc là, sau hơn một năm lưu học phương xa, một chiều nọ tôi đón xe về nhà, tiện đường nên ghé qua chùa trước, thì bàng hoànghay tin sư huynh đã trở về thế tục, và người phối ngẫu là cô bé cạo mủ cao su hay xin nước uống mỗi chiều.

Tôi thẫn thờ lê bước về nhà, thì được ba me cho biết thêm, sư huynh đã bối rối và thừa nhận với ba me ngay khi sự việc diễn ra. Thế nên, khi cô bé cạo mủ cao su có thai và thai còn nhỏ, thì ba me đã gặp sư huynh và thưa rằng: “Nếu thực sự đó là một phút lỡ lầm, và nếu như thầy biết hồi tâm hướng Phật, thì một người con trai trong gia đình này sẽ nhận đứa trẻ làm con.”

Sư huynh đã khóc với ba me và kiên quyết thưa: “Con nguyện sẽ không làm cho ai khổ nữa.” Trong ánh mắt đượm buồn, sư huynh còn nói thêm rằng, chúng con đã thỏa thuậnrồi, khi nào con của chúng con lớn, thì con sẽ phát nguyện xuất gia.

Sau đó, sư huynh đưa cả gia đình bé bỏng của mình lưu lạc ở phương xa. Nghe qua người thân thì tôi được biết, sư huynh cũng tạm ổn với nếp sống thanh bần là nghề trồng nấm, cùng tất bật với các việc vặt mưu sinh.

Mãi đến một hôm, sau hơn mười năm không liên lạc, tôi vừa hoan hỷ vừa bàng hoàng khi biết rằng, sư huynh đã thực hiện lời hứa của mình là tái xuất gia. Tuy nhiên, nghiệp dĩ vẫn chưa buông tha, một ngày nọ sư huynh đi Phật sự ở một vùng quê xa mà quên đem theo thuốc ngừa hen suyễn. Đất lạ, trở trời, một con hen bất chợt khởi lên và sư huynh đành phải giã biệt cõi đời với nhiều ước nguyện còn dang dở, và nhiều điều chưa kịp nói hết với người trước, người sau.

Xem thêm:

Sư huynh

 Vào thập niên tám mươi của thế kỷ trước, sau khi đất nước Việt Nam vừa mới thống nhất, do bối cảnh đặc thù của xã hội nên tình hình quản lý nhà nước về tôn giáo có nhiều điều khác biệt so với thời nay. Tôi còn nhớ rằng, có những tu sĩ Phật giáo, do không đầy đủ các giấy tờ liên quan đến nhân thân, nên không thể cư trú trong chính ngôi chùa mà mình đã xuất gia và đang yên lành tu học tại đó. 

Vô số hoàn cảnh thương tâm đã nảy sinh từ những vấn đề liên quan đến cư  trú này. Sư huynh tôi
là một trường hợp như vậy. Sau  lời  cáo  bạch  đầy ái ngại của thầy trụ trì ở một ngôi chùa nọ, sư    huynh tôi cũng như bao nhiêu vị tăng sĩ thiếu điều kiện về giấy tờ cư trú, đành phải vạ vật ở nhiều nơi. Có lúc ban ngày sinh hoạt tại chùa, nhưng ban đêm đành phải tá túc ở nhà dân. Một vài vị tăng sĩ trẻ không kham nỗi sự bí bách đành phải lựa chọn con đường trở về với thế tục. Sư huynh tôi khi ấy còn trẻ, nhưng luôn kiên định con đường tu dù phải làm khách “tạm trú thập phương Tăng.”

Nghe Phật tử thân quen bảo rằng, có một vị xuất gia đang lâm vào cảnh ngặt, vừa bị bệnh hen suyễn vừa không có chỗ nương thân. Lúc ấy, dù điều kiện sinh nhai còn bất tiện nhiều bề, nhưng ba me tôi đã phát tâm cung thỉnh sư huynh về tá túc tại nhà. Làm nghề nông, con thì đông, không gian sinh hoạt không đủ rộng, lại phải sắp sếp một gian phòng bé tí, để cho vị xuất gia có nơi sinh hoạt tạm thời, quả là nỗ lực từ ba me tôi.

Phật pháp ứng dụng sư huynh

Có những khi đồng áng vào mùa, cả nhà phải tất bật trên rẫy xa, nhưng phải phân công khi người này, lúc người nọ lo cơm nước cho thầy. Nghề nông tuy bận rộn nhưng ai cũng hoan hỷ với những câu chuyện thầy kể khi chiều về, và lòng đầy thanh thản khi nghe tiếng tụng kinh khàn đục của sư huynh trong  lúc trời còn mờ sương. Tôi còn nhớ sau một mùa bội thu, ba me đã thủ thỉ bàn nhau mua một xấp vải kate Nhật màu nâu để cúng dường chothầy khi ra Hạ.            

Cũng từ nhân  duyên đó, tôi hiểu thêm về những câu chuyện tiền thân Đức Phật, những gương nhân quả ba đời mà khi rảnh rỗi thầy kể cho cả nhà cùng nghe.

Mãi cho đến một hôm, thầy bất chợt hỏi tôi: “Con muốn đi tu không?” Tôi trả lời không một chút do dự: “Đi thì đi.” Thật sự ra, trước khi đón thầy về nhà, mỗi chủ nhật hàng tuần, tôi vẫn đi học giáo lý ở một ngôi chùa ở làng bên, những kiến thức lõm bõm từ những buổi học bên hiên chùa, cộng với những câu chuyện mà sư huynh đã kể cho cả nhà cùng nghe khi rỗi việc, đã từng bước làm nhu nhuyến tâm tôi.

Dường  như ngay tức khắc, sư huynh đã bàn với ba me nhằm giúp tôi thực hiện ý nguyện này. Tự nhận rằng, mình còn trẻ và duyên nghiệp còn long đong nên sư huynh không thể làm thầy thế phát. Sau khi trầm tính, lắng nghe và suy xét nhiều bề, sư huynh và cả ba me đã đưa tôi đến cầu thầy bổn sư của tôi làm thầy thế độ. Mặc dù tôi và sư huynhkhông nên nghĩa sư-đồ nhưng trong thâm tâm tôi luôn sùng kính và xem như một bậc ân sư.                        

Tôi được chính thức xuất gia và không lâu sau đó, sư huynh cũng từ giã ba me và phát nguyện trông   nom một ngôi chùa nghèo nằm heo hút giữa nông trại cao su ngút mắt. Và cũng từ đây, một phút lỡ làng trong một đêm trăng vắng, đã mở ra bước ngoặt chưa hề tính trước trong cuộc đời của sư huynh. Sự việc là, sau hơn một năm lưu học phương xa, một chiều nọ tôi đón xe về nhà, tiện đường nên ghé qua chùa trước, thì bàng hoànghay tin sư huynh đã trở về thế tục, và người phối ngẫu là cô bé cạo mủ cao su hay xin nước uống mỗi chiều.

Tôi thẫn thờ lê bước về nhà, thì được ba me cho biết thêm, sư huynh đã bối rối và thừa nhận với ba me ngay khi sự việc diễn ra. Thế nên, khi cô bé cạo mủ cao su có thai và thai còn nhỏ, thì ba me đã gặp sư huynh và thưa rằng: “Nếu thực sự đó là một phút lỡ lầm, và nếu như thầy biết hồi tâm hướng Phật, thì một người con trai trong gia đình này sẽ nhận đứa trẻ làm con.”

Sư huynh đã khóc với ba me và kiên quyết thưa: “Con nguyện sẽ không làm cho ai khổ nữa.” Trong ánh mắt đượm buồn, sư huynh còn nói thêm rằng, chúng con đã thỏa thuậnrồi, khi nào con của chúng con lớn, thì con sẽ phát nguyện xuất gia.

Sau đó, sư huynh đưa cả gia đình bé bỏng của mình lưu lạc ở phương xa. Nghe qua người thân thì tôi được biết, sư huynh cũng tạm ổn với nếp sống thanh bần là nghề trồng nấm, cùng tất bật với các việc vặt mưu sinh.

Mãi đến một hôm, sau hơn mười năm không liên lạc, tôi vừa hoan hỷ vừa bàng hoàng khi biết rằng, sư huynh đã thực hiện lời hứa của mình là tái xuất gia. Tuy nhiên, nghiệp dĩ vẫn chưa buông tha, một ngày nọ sư huynh đi Phật sự ở một vùng quê xa mà quên đem theo thuốc ngừa hen suyễn. Đất lạ, trở trời, một con hen bất chợt khởi lên và sư huynh đành phải giã biệt cõi đời với nhiều ước nguyện còn dang dở, và nhiều điều chưa kịp nói hết với người trước, người sau.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Thuở xưa, đời nhà Lương, vua Võ Ðế, có quen với một vị Hòa thượng, hiệu là Chí Công, hằng ngày trò chuyện với nhau rất thân thiết.

Hoàng hậu tên là Hy Thị, thấy vậy, bèn can gián vua đừng chơi với người ngu tăng ấy, nhưng vua Võ Ðế chẳng hề nghe, cứ giao du như thường. Hoàng hậu giận lắm, toan lập mưu hại ngài Chí Công, bèn lén dùng thịt chó làm nhân bánh, rồi sai người đem bánh ấy đến chùa mà trai tăng.

Ai ngờ Hòa thượng Chí Công đã biết trước, nên dự sắm áo tràng rộng tay, làm bánh chay bỏ vào, rồi khi trai Tăng lén bỏ bánh mặn trong tay áo, lấy bánh chay ra ăn.

Bà Hi Thị đợi tin Hòa thượng ăn rồi, tức thì tâu với vua rằng: “Bánh ấy thiếp dùng thịt chó làm nhân, ông Chí Công ăn mà không biết, thiệt là người phàm ngu muội, không có đạo đức trí tuệ gì cả, nay bệ hạ còn làm bạn nữa chăng?”

Vua nghe nói nổi giận, liền mang gươm đến chùa mà giết Hòa thượng.

Khi ấy, ngài Chí Công cũng đã biết trước, nên ra ngoài cửa chùa đứng đợi.

Lúc  vua  ngự  đến  trông thấy Hòa thượng thì hỏi rằng: “Ông ra đứng đây mà làm chi?” Ngài  Chí  Công  đáp  rằng: “Bần tăng biết bệ hạ đến giết bần tăng, nên bần tăng ra đây đứng đợi. Nếu Bệ hạ mà vào chùa mà giết hại, thì ô uế chốn

Già lam càng tội nghiệp lắm!” Vua nghe nói kinh hồn chấp tay niệm Phật và sám hối, rồi liền mời Hòa thượng vào chùa mà hỏi rằng: “Ngài đã tiên tri được như vậy, vì sao còn ăn lầm bánh thịt chó mà không biết?”

Ngài Chí Công bèn đáp rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Bần tăng có ăn đâu!”

Tâu rồi Ngài liền thỉnh vua ra sau vườn, dạy người đào lấy bánh thịt chó lên, thấy vẫn còn đủ 120 cái. Hòa thượng bèn lấy nước Tịnh thủy phun vào, tức thì mỗi mười bánh hiệp lại thành một con chó, hình thể vận động như thường.

Vua thấy vậy thất kinh, mới biết pháp lực thần thông của Ngài Chí Công thiệt là cao cường quảng đại, liền trở vào chùa hết lòng lễ sám hối những sự lỗi lầm. Từ ấy Võ Ðế càng yêu mến Hòa thượng Chí Công hơn ngày trước nữa; trái lại bà Hy Thị thấy thế lại càng giận thêm, nên khiến kẻ hầu hạ đến chùa lấy kinh sách đem ra đốt hết.

Phật pháp ứng dụng công đức sám hối

Ðến niên hiệu Thiên Giám, bà mang bệnh nặng rồi phải từ trần, rồi đầu thai làm con rắn mãng xà ở sau hậu cung ẩn mình không cho ai thấy, thừa khi ban đêm, bà lại mách điềm chiêm bao cho vua Võ Ðế hay rằng: “Khi thiếp còn sống ăn ở bất nhân, tổn vật hại người, làm điều tham độc. Vì cớ ấy nên nay thiếp phải làm thân mãng xà, thân đã dài, vóc lại lớn, bò lết không nổi, đói không có chi ăn, khát chẳng có chi uống, cực khổ nhiều bề, còn mỗi trong chân vảy lại có thứ độc trùng đeo vào cắn rứt da thịt, đau thắt ruột gan thật là khó chịu! 

Thiếp nghĩ vì thiếp cùng Bệ hạ vẫn là tơ duyên chỉ nợ, tình vợ nghĩa chồng, mà nay thiếp bị đọa ra thân súc sanh thế này, Bệ hạ nỡ nào hưởng thọ phú quý một mình mà không tìm phương chi cứu thiếp, nên xin Bệ hạ từ bi thỉnh thầy làm chay độ giải cho thiếp, may nhờ Phật pháp hộ trì, thoát ra khỏi vòng ác báo, thì thiếp cảm ơn đời đời.” Vua Võ Ðế nghe rồi, bèn thức dậy rầu rĩ khóc lóc một hồi;  sáng  ra liền  truyền  lệnh rước  các  thầy  Sa  môn  nhóm tại  điện  mà  hỏi  rằng:  “Vậy trong  hàng  chư  tăng,  ai  có phép chi  cứu giải  Hoàng hậu khỏi điều tội khổ chăng?”

Hòa thượng Chí Công tâu rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Tội của Hoàng hậu rất nặng, xin Bệ hạ hãy thiết lập đàn tràng lễ bái sám hối, thì mới cứu được.”

Vua Võ Ðế bằng lòng, liền cầu Hòa thượng Chí Công soạn ra mười quyển sám văn, rồi thiết đàn trong cung làm chay ba tháng, cầu sám cho Hoàng hậu. Có một hôm kia, khi trai đàn gần mãn có mùi hương nồng nã bay khắp trong cung điện. Vua Võ Ðế ngước mắt ngó lên trời, thấy có một nàng con gái, nhan sắc tuyệt trần, đứng giữa hư không mà chấp tay tâu cùng vua rằng: “Thiếp nhờ công đức của Bệ hạ cầu sám hối đã thoát được thân mãng xà mà sanh về cõi trời Ðao Lợi. Nên thiếp phải hiện thân ra cho Bệ hạ thấy để làm chứng nghiệm vậy – Thôi, mấy lời cảm tạ, kính chúc Bệ hạ ở lại bình an.” Bà nói rồi liền ẩn mình không thấy nữa.

Khi ấy vua Võ Ðế nửa mừng nửa khóc, khôn xiết sự tình bèn lui vào cung mời Hòa thượng Chí Công mà hỏi rằng: “Hoàng hậu của Trẫm buổi còn sống, hết sức thù ghét Hòa thượng là túc duyên làm sao mà gây ra cừu oán như vậy?”

Ngài Chí Công tâu rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Sự cừu oán duyên do kiếp trước có một vị Trú trì và một vị Giám tự ở chung một chùa. Trong chùa ấy có cái đôn để nước, dưới chân cái đôn có con thiện trùng thường thường kêu trong khi ban đêm; tiếng kêu của nó inh ỏi như thể tiếng con dế hay con vạt sành vậy. Thường khi ông Trú trì tới đó lấy nước súc miệng, rửa mặt thì cũng chú nguyện cho con ấy mau mau thoát đặng cái thân súc vật, mà sanh về đường nhân luân.

Một bữa kia ông Trú trì đi khỏi, ông Giám tự ghét con thiện trùng đêm nào cũng kêu, và làm cho lòng ông không được thanh tịnh và chẳng cho ông ngủ thẳng giấc, nên ông bèn bắt con ấy, lấy dao cắt ngang giữa lưng làm hai, rồi cũng bỏ lại dưới chân đôn như cũ.

Qua bữa sau ông Trú trì về, trót đêm không nghe tiếng con thiện trùng kêu nữa, bèn kiếm dưới chân đôn, thì thấy nó đã chết rồi. Ông thương khóc, niệm Phật chú nguyện cho nó và lấy một miếng vải đỏ buộc vào chỗ lưng bị cắt, rồi đem chôn sau vườn chùa.

Muôn tâu Bệ hạ! Con thiện trùng ấy tức là kiếp này làm thân Hoàng hậu; còn vị Giám tự là kiếp này làm thân của Bần Tăng đây. Vì vậy oan gia gặp nhau toan đòi nợ trước, nếu tôi kiếp này tu hành lơ láo, thì có thể nào thoát ra khỏi tay của Hoàng hậu!”

Vua Võ Ðế nghe nói liều gật đầu mà đáp rằng: “Hèn gì Hoàng hậu của Trẫm thường thường buộc sợi dây đỏ ngang lưng, không khi nào rời bỏ, mà Trẫm không biết cớ làm sao. – Có một đêm Hoàng hậu ngủ mê, Trẫm lén mở sợi dây ấy ra, thì Hoàng hậu nói rằng đau lưng, rồi lấy dây ấy buộc lại vào, tức thì không đau nữa. Nay Hòa thượng bày tỏ sự túc trái như vậy, thì biết Phật nói “NHÂN QUẢ” thiệt là không sai.”

Từ ấy, vua Võ Ðế lại càng tin tưởng Phật pháp, trọng đãi Chúng Tăng và nguyện một lòng phụng sự Tam Bảo…

Xem thêm:

Công đức sám hối

Thuở xưa, đời nhà Lương, vua Võ Ðế, có quen với một vị Hòa thượng, hiệu là Chí Công, hằng ngày trò chuyện với nhau rất thân thiết.

Hoàng hậu tên là Hy Thị, thấy vậy, bèn can gián vua đừng chơi với người ngu tăng ấy, nhưng vua Võ Ðế chẳng hề nghe, cứ giao du như thường. Hoàng hậu giận lắm, toan lập mưu hại ngài Chí Công, bèn lén dùng thịt chó làm nhân bánh, rồi sai người đem bánh ấy đến chùa mà trai tăng.

Ai ngờ Hòa thượng Chí Công đã biết trước, nên dự sắm áo tràng rộng tay, làm bánh chay bỏ vào, rồi khi trai Tăng lén bỏ bánh mặn trong tay áo, lấy bánh chay ra ăn.

Bà Hi Thị đợi tin Hòa thượng ăn rồi, tức thì tâu với vua rằng: “Bánh ấy thiếp dùng thịt chó làm nhân, ông Chí Công ăn mà không biết, thiệt là người phàm ngu muội, không có đạo đức trí tuệ gì cả, nay bệ hạ còn làm bạn nữa chăng?”

Vua nghe nói nổi giận, liền mang gươm đến chùa mà giết Hòa thượng.

Khi ấy, ngài Chí Công cũng đã biết trước, nên ra ngoài cửa chùa đứng đợi.

Lúc  vua  ngự  đến  trông thấy Hòa thượng thì hỏi rằng: “Ông ra đứng đây mà làm chi?” Ngài  Chí  Công  đáp  rằng: “Bần tăng biết bệ hạ đến giết bần tăng, nên bần tăng ra đây đứng đợi. Nếu Bệ hạ mà vào chùa mà giết hại, thì ô uế chốn

Già lam càng tội nghiệp lắm!” Vua nghe nói kinh hồn chấp tay niệm Phật và sám hối, rồi liền mời Hòa thượng vào chùa mà hỏi rằng: “Ngài đã tiên tri được như vậy, vì sao còn ăn lầm bánh thịt chó mà không biết?”

Ngài Chí Công bèn đáp rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Bần tăng có ăn đâu!”

Tâu rồi Ngài liền thỉnh vua ra sau vườn, dạy người đào lấy bánh thịt chó lên, thấy vẫn còn đủ 120 cái. Hòa thượng bèn lấy nước Tịnh thủy phun vào, tức thì mỗi mười bánh hiệp lại thành một con chó, hình thể vận động như thường.

Vua thấy vậy thất kinh, mới biết pháp lực thần thông của Ngài Chí Công thiệt là cao cường quảng đại, liền trở vào chùa hết lòng lễ sám hối những sự lỗi lầm. Từ ấy Võ Ðế càng yêu mến Hòa thượng Chí Công hơn ngày trước nữa; trái lại bà Hy Thị thấy thế lại càng giận thêm, nên khiến kẻ hầu hạ đến chùa lấy kinh sách đem ra đốt hết.

Phật pháp ứng dụng công đức sám hối

Ðến niên hiệu Thiên Giám, bà mang bệnh nặng rồi phải từ trần, rồi đầu thai làm con rắn mãng xà ở sau hậu cung ẩn mình không cho ai thấy, thừa khi ban đêm, bà lại mách điềm chiêm bao cho vua Võ Ðế hay rằng: “Khi thiếp còn sống ăn ở bất nhân, tổn vật hại người, làm điều tham độc. Vì cớ ấy nên nay thiếp phải làm thân mãng xà, thân đã dài, vóc lại lớn, bò lết không nổi, đói không có chi ăn, khát chẳng có chi uống, cực khổ nhiều bề, còn mỗi trong chân vảy lại có thứ độc trùng đeo vào cắn rứt da thịt, đau thắt ruột gan thật là khó chịu! 

Thiếp nghĩ vì thiếp cùng Bệ hạ vẫn là tơ duyên chỉ nợ, tình vợ nghĩa chồng, mà nay thiếp bị đọa ra thân súc sanh thế này, Bệ hạ nỡ nào hưởng thọ phú quý một mình mà không tìm phương chi cứu thiếp, nên xin Bệ hạ từ bi thỉnh thầy làm chay độ giải cho thiếp, may nhờ Phật pháp hộ trì, thoát ra khỏi vòng ác báo, thì thiếp cảm ơn đời đời.” Vua Võ Ðế nghe rồi, bèn thức dậy rầu rĩ khóc lóc một hồi;  sáng  ra liền  truyền  lệnh rước  các  thầy  Sa  môn  nhóm tại  điện  mà  hỏi  rằng:  “Vậy trong  hàng  chư  tăng,  ai  có phép chi  cứu giải  Hoàng hậu khỏi điều tội khổ chăng?”

Hòa thượng Chí Công tâu rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Tội của Hoàng hậu rất nặng, xin Bệ hạ hãy thiết lập đàn tràng lễ bái sám hối, thì mới cứu được.”

Vua Võ Ðế bằng lòng, liền cầu Hòa thượng Chí Công soạn ra mười quyển sám văn, rồi thiết đàn trong cung làm chay ba tháng, cầu sám cho Hoàng hậu. Có một hôm kia, khi trai đàn gần mãn có mùi hương nồng nã bay khắp trong cung điện. Vua Võ Ðế ngước mắt ngó lên trời, thấy có một nàng con gái, nhan sắc tuyệt trần, đứng giữa hư không mà chấp tay tâu cùng vua rằng: “Thiếp nhờ công đức của Bệ hạ cầu sám hối đã thoát được thân mãng xà mà sanh về cõi trời Ðao Lợi. Nên thiếp phải hiện thân ra cho Bệ hạ thấy để làm chứng nghiệm vậy – Thôi, mấy lời cảm tạ, kính chúc Bệ hạ ở lại bình an.” Bà nói rồi liền ẩn mình không thấy nữa.

Khi ấy vua Võ Ðế nửa mừng nửa khóc, khôn xiết sự tình bèn lui vào cung mời Hòa thượng Chí Công mà hỏi rằng: “Hoàng hậu của Trẫm buổi còn sống, hết sức thù ghét Hòa thượng là túc duyên làm sao mà gây ra cừu oán như vậy?”

Ngài Chí Công tâu rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Sự cừu oán duyên do kiếp trước có một vị Trú trì và một vị Giám tự ở chung một chùa. Trong chùa ấy có cái đôn để nước, dưới chân cái đôn có con thiện trùng thường thường kêu trong khi ban đêm; tiếng kêu của nó inh ỏi như thể tiếng con dế hay con vạt sành vậy. Thường khi ông Trú trì tới đó lấy nước súc miệng, rửa mặt thì cũng chú nguyện cho con ấy mau mau thoát đặng cái thân súc vật, mà sanh về đường nhân luân.

Một bữa kia ông Trú trì đi khỏi, ông Giám tự ghét con thiện trùng đêm nào cũng kêu, và làm cho lòng ông không được thanh tịnh và chẳng cho ông ngủ thẳng giấc, nên ông bèn bắt con ấy, lấy dao cắt ngang giữa lưng làm hai, rồi cũng bỏ lại dưới chân đôn như cũ.

Qua bữa sau ông Trú trì về, trót đêm không nghe tiếng con thiện trùng kêu nữa, bèn kiếm dưới chân đôn, thì thấy nó đã chết rồi. Ông thương khóc, niệm Phật chú nguyện cho nó và lấy một miếng vải đỏ buộc vào chỗ lưng bị cắt, rồi đem chôn sau vườn chùa.

Muôn tâu Bệ hạ! Con thiện trùng ấy tức là kiếp này làm thân Hoàng hậu; còn vị Giám tự là kiếp này làm thân của Bần Tăng đây. Vì vậy oan gia gặp nhau toan đòi nợ trước, nếu tôi kiếp này tu hành lơ láo, thì có thể nào thoát ra khỏi tay của Hoàng hậu!”

Vua Võ Ðế nghe nói liều gật đầu mà đáp rằng: “Hèn gì Hoàng hậu của Trẫm thường thường buộc sợi dây đỏ ngang lưng, không khi nào rời bỏ, mà Trẫm không biết cớ làm sao. – Có một đêm Hoàng hậu ngủ mê, Trẫm lén mở sợi dây ấy ra, thì Hoàng hậu nói rằng đau lưng, rồi lấy dây ấy buộc lại vào, tức thì không đau nữa. Nay Hòa thượng bày tỏ sự túc trái như vậy, thì biết Phật nói “NHÂN QUẢ” thiệt là không sai.”

Từ ấy, vua Võ Ðế lại càng tin tưởng Phật pháp, trọng đãi Chúng Tăng và nguyện một lòng phụng sự Tam Bảo…

Xem thêm:
Đọc thêm..

Phương cách thực hành tha thứ này có ba phần: 1-Sự tha thứ từ người khác, 2- Tha thứ cho bản thân, 3 -Tha thứ cho người đã làm tổn hại ta. Các cách thực hành này không bó buộc, nên nếu bạn cảm thấy không cần cầu xin sự tha thứ, thì bạn không tham gia. Nếu bạn cảm thấy không thể tha thứ cho bản thân, bạn có thể ngồi im lặng, quan sát xem có cánh cửa nào dù nhỏ hẹp hé mở trong trái tim để cho chút ánh sáng nhỏ nhoi nhất có thể len vào. Và nếu bạn cảm thấy không thể nào tha thứ cho người vì nghĩ là việc làm của họ không thể nào có thể được tha thứ, thì bạn cũng cần biết điều đó. Trong quá trình thực hành, ta quán chiếu xem mình đang ôm ấp nỗi đau xót, chua cay nào, và nó dày vò trái tim ta như thế nào. Nếu như bạn chỉ có thể tha thứ một phần rất nhỏ,thì cũng không sao. Đây là một quá trình tháo gỡ mà đôi khi cần cả đời người để làm việc đó.

Có thể bạn không nên bắt đầu bằng những việc trọng đại mà cho đến bây giờ bạn vẫn chưa muốn tha thứ. Có thể bạn nên bắt đầu bằng những việc nhỏ. Hãy để tâm bạn được làm quen với việc thực hành tha thứ. Cũng giống như khi tập thể lực, ta không thể bắt đầu bằng việc nâng cân nặng 250 ký. Ta phải bắt đầu bằng các cục sắt nhỏ, để bắp thịt bắt đầu làm việc. Rồi dần dần ta nâng ký lên. Cũng thế, khi tập hành tha thứ, ta bắt đầu bằng những việc nhỏ, rồi dần dần khả năng tha thứ của ta sẽ lớn mạnh để ta có thể đối mặt với khổ đau - khổ đau của bản thân cũng như của người - với tâm từ.

Hãy ngồi thoải mái, mắt khép lại, và thở tự nhiên, không gắng sức. Buông thư thân tâm. Cảm nhận sự kết nối giữa bạn và vũ trụ. Để hơi thở nhẹ nhàng đi khắp châu thân, nhất là vào tim bạn.

Khi đang hít thở, hãy cảm nhận tất cả mọi rào chắn mà bạn đã dựng lên, các tình cảm mà bạn chất chứa vì chưa thể tha thứ cho mình và cho người. Hãy nhận biết cảm giác đau đớn vì đã đóng chặt trái tim bạn.


Phật pháp ứng dụng sức mạnh của sự tha thứ


Sự tha thứ từ người khác

Khi hơi thở len vào tim, hãy cảm nhận bất cứ sự khô cằn nơi đó, hãy lặp lại thầm những lời sau: “Tôi đã làm tổn thương, làm phương hại đến người khác bằng nhiều cách khác nhau. Giờ thì tôi đã nhớ lại. Những cách mà tôi đã phản bội, bỏ rơi, gây đau khổ, một cách cố ý hay vô tình, do đau khổ, sợ hãi, sân hận hay vô minh”. Hãy để mình tự nhớ lại và mường tượng lại các cách mà ta đã làm tổn hại người. Hãy nhìn thấy được những khổ đau mà ta đã gây ra cho người do sợ hãi, vô minh. Cảm nhận được như thế, bạn sẽ cuối cùng buông xuống gánh nặng này và xin được tha thứ. Hãy dành nhiều thời gian để hình dung lại ký ức trĩu nặng tâm bạn. Khi từng khuôn mặt cá nhân hiện lên trong tâm, hãy nhẹ nhàng nói: “Tôi xin được tha thứ. Tôi xin được tha thứ.”

Tha thứ cho bản thân

Để cầu xin sự tha thứ cho bản thân, hãy niệm thầm: “Khi tôi gây đau khổ cho người, bằng nhiều cách tôi cũng bị tổn thương, bị tác hại. Đã bao lần tôi phản bội, hay bỏ rơi bản thân trong ý nghĩ, lời nói hay hành động, một cách cố ý hay vô tình.” Hãy tự nhớ lại những cách mà bạn đã làm tổn hại mình. Và tha thứ cho từng hành động tác hại. “Qua những cách mà tôi đã làm tổn hại bản thân bằng hành động hay ý nghĩ, do sợ hãi, khổ và vô minh, giờ tôi chân thành hối lỗi. Tôi xin tha thứ cho bản thân. Tôi tha thứ cho bản thân. Tôi tha thứ cho bản thân.”

Tha thứ cho người đã làm tổn hại ta

Để phát tâm tha thứ cho những người đã tổn hại ta, hãy lặp lại như sau: “Tôi đã bị tha nhân làm tổn hại, bóc lột, bỏ rơi bằng nhiều cách, dù vô tình hay cố ý, bằng lời nói, ý nghĩ hay hành động.” Hãy hình dung ra những cách bạn cảm thấy bị tổn hại. Hãy ghi nhận chúng. Từng sự tổn hại. Hãy ghi nhớ những điều này là thực đối với bạn, và cảm nhận sự đau buồn bạn đã gánh chịu trong quá khứ. Và giờ bạn cảm nhận rằng mình có thể buông gánh nặng này xuống bằng cách tha thứ dần dần khi tâm bạn đã sẵn sàng. Đừng ép buộc nó; không cần phải buông bỏ mọi muộn phiền trong một lần ngồi thiền.

Quan trọng là thực tập từng bước nhỏ điều gì bạn cảm thấy đã sẵn sàng để tha thứ. Hãy tự nhủ thầm: “Tôi nhớ những cách tôi đã bị tổn thương, làm hại. Và tôi biết đó là do những nỗi sợ hãi, vô minh, khổ, sân hận của tha nhân gây ra. Tôi đã mang vết thương này trong lòng đủ lâu. Vì đã sẵn sàng, tôi xin tha thứ cho người. Người đã tổn hại tôi, tôi chân thành tha thứ cho người. Tôi tha thứ cho người.”

Ba phương cách thực hành tha thứ này có thể được nhẹ nhàng lặp đi, lặp lại cho đến khi bạn cảm thấy tâm thật thanh thản. Đối với một số tổn thương nặng nề, có thể bạn chưa thấy thanh thản. Ngược lại, bạn còn có thể trải nghiệm lại cảm giác tổn thương, sân hận mà bạn từng gánh chịu. Trong trường hợp đó, bạn có thể chỉ nghĩ thoáng qua, rồi tha thứ cho bản thân vì sự chưa sẵn sàng buông bỏ và bước tới.


Xem thêm:

Cách thực hành tha thứ


Phương cách thực hành tha thứ này có ba phần: 1-Sự tha thứ từ người khác, 2- Tha thứ cho bản thân, 3 -Tha thứ cho người đã làm tổn hại ta. Các cách thực hành này không bó buộc, nên nếu bạn cảm thấy không cần cầu xin sự tha thứ, thì bạn không tham gia. Nếu bạn cảm thấy không thể tha thứ cho bản thân, bạn có thể ngồi im lặng, quan sát xem có cánh cửa nào dù nhỏ hẹp hé mở trong trái tim để cho chút ánh sáng nhỏ nhoi nhất có thể len vào. Và nếu bạn cảm thấy không thể nào tha thứ cho người vì nghĩ là việc làm của họ không thể nào có thể được tha thứ, thì bạn cũng cần biết điều đó. Trong quá trình thực hành, ta quán chiếu xem mình đang ôm ấp nỗi đau xót, chua cay nào, và nó dày vò trái tim ta như thế nào. Nếu như bạn chỉ có thể tha thứ một phần rất nhỏ,thì cũng không sao. Đây là một quá trình tháo gỡ mà đôi khi cần cả đời người để làm việc đó.

Có thể bạn không nên bắt đầu bằng những việc trọng đại mà cho đến bây giờ bạn vẫn chưa muốn tha thứ. Có thể bạn nên bắt đầu bằng những việc nhỏ. Hãy để tâm bạn được làm quen với việc thực hành tha thứ. Cũng giống như khi tập thể lực, ta không thể bắt đầu bằng việc nâng cân nặng 250 ký. Ta phải bắt đầu bằng các cục sắt nhỏ, để bắp thịt bắt đầu làm việc. Rồi dần dần ta nâng ký lên. Cũng thế, khi tập hành tha thứ, ta bắt đầu bằng những việc nhỏ, rồi dần dần khả năng tha thứ của ta sẽ lớn mạnh để ta có thể đối mặt với khổ đau - khổ đau của bản thân cũng như của người - với tâm từ.

Hãy ngồi thoải mái, mắt khép lại, và thở tự nhiên, không gắng sức. Buông thư thân tâm. Cảm nhận sự kết nối giữa bạn và vũ trụ. Để hơi thở nhẹ nhàng đi khắp châu thân, nhất là vào tim bạn.

Khi đang hít thở, hãy cảm nhận tất cả mọi rào chắn mà bạn đã dựng lên, các tình cảm mà bạn chất chứa vì chưa thể tha thứ cho mình và cho người. Hãy nhận biết cảm giác đau đớn vì đã đóng chặt trái tim bạn.


Phật pháp ứng dụng sức mạnh của sự tha thứ


Sự tha thứ từ người khác

Khi hơi thở len vào tim, hãy cảm nhận bất cứ sự khô cằn nơi đó, hãy lặp lại thầm những lời sau: “Tôi đã làm tổn thương, làm phương hại đến người khác bằng nhiều cách khác nhau. Giờ thì tôi đã nhớ lại. Những cách mà tôi đã phản bội, bỏ rơi, gây đau khổ, một cách cố ý hay vô tình, do đau khổ, sợ hãi, sân hận hay vô minh”. Hãy để mình tự nhớ lại và mường tượng lại các cách mà ta đã làm tổn hại người. Hãy nhìn thấy được những khổ đau mà ta đã gây ra cho người do sợ hãi, vô minh. Cảm nhận được như thế, bạn sẽ cuối cùng buông xuống gánh nặng này và xin được tha thứ. Hãy dành nhiều thời gian để hình dung lại ký ức trĩu nặng tâm bạn. Khi từng khuôn mặt cá nhân hiện lên trong tâm, hãy nhẹ nhàng nói: “Tôi xin được tha thứ. Tôi xin được tha thứ.”

Tha thứ cho bản thân

Để cầu xin sự tha thứ cho bản thân, hãy niệm thầm: “Khi tôi gây đau khổ cho người, bằng nhiều cách tôi cũng bị tổn thương, bị tác hại. Đã bao lần tôi phản bội, hay bỏ rơi bản thân trong ý nghĩ, lời nói hay hành động, một cách cố ý hay vô tình.” Hãy tự nhớ lại những cách mà bạn đã làm tổn hại mình. Và tha thứ cho từng hành động tác hại. “Qua những cách mà tôi đã làm tổn hại bản thân bằng hành động hay ý nghĩ, do sợ hãi, khổ và vô minh, giờ tôi chân thành hối lỗi. Tôi xin tha thứ cho bản thân. Tôi tha thứ cho bản thân. Tôi tha thứ cho bản thân.”

Tha thứ cho người đã làm tổn hại ta

Để phát tâm tha thứ cho những người đã tổn hại ta, hãy lặp lại như sau: “Tôi đã bị tha nhân làm tổn hại, bóc lột, bỏ rơi bằng nhiều cách, dù vô tình hay cố ý, bằng lời nói, ý nghĩ hay hành động.” Hãy hình dung ra những cách bạn cảm thấy bị tổn hại. Hãy ghi nhận chúng. Từng sự tổn hại. Hãy ghi nhớ những điều này là thực đối với bạn, và cảm nhận sự đau buồn bạn đã gánh chịu trong quá khứ. Và giờ bạn cảm nhận rằng mình có thể buông gánh nặng này xuống bằng cách tha thứ dần dần khi tâm bạn đã sẵn sàng. Đừng ép buộc nó; không cần phải buông bỏ mọi muộn phiền trong một lần ngồi thiền.

Quan trọng là thực tập từng bước nhỏ điều gì bạn cảm thấy đã sẵn sàng để tha thứ. Hãy tự nhủ thầm: “Tôi nhớ những cách tôi đã bị tổn thương, làm hại. Và tôi biết đó là do những nỗi sợ hãi, vô minh, khổ, sân hận của tha nhân gây ra. Tôi đã mang vết thương này trong lòng đủ lâu. Vì đã sẵn sàng, tôi xin tha thứ cho người. Người đã tổn hại tôi, tôi chân thành tha thứ cho người. Tôi tha thứ cho người.”

Ba phương cách thực hành tha thứ này có thể được nhẹ nhàng lặp đi, lặp lại cho đến khi bạn cảm thấy tâm thật thanh thản. Đối với một số tổn thương nặng nề, có thể bạn chưa thấy thanh thản. Ngược lại, bạn còn có thể trải nghiệm lại cảm giác tổn thương, sân hận mà bạn từng gánh chịu. Trong trường hợp đó, bạn có thể chỉ nghĩ thoáng qua, rồi tha thứ cho bản thân vì sự chưa sẵn sàng buông bỏ và bước tới.


Xem thêm:
Đọc thêm..